CÂU CHUYỆN 14: КОРОВА
[TBODY]
[/TBODY]
КОРОВА Жила вдова Марья со своей матерью и с шестью детьми. Жили они бедно. Но купили на последние деньги бурую корову, чтоб было молоко для детей. Старшие дети кормили Бурёнушку в поле и давали ей помои дома. Один раз мать вышла со двора, а старший мальчик Миша полез за хлебом на полку, уронил стакан и разбил его. Миша испугался, что мать его будет бранить, подобрал большие стёкла от стакана, вынес на двор и зарыл в навозе, а маленькие стёклышки все подобрал и бросил в лоханку. Мать хватилась стакана, стала спрашивать, но Миша не сказал; и так дело осталось. На другой день после обеда пошла мать давать Бурёнушке помои из лоханки, видит – Бурёнушка скучна и не ест корма. Стали лечить корову, позвали бабку. Бабка сказала: – Корова жива не будет, надо её убить на мясо. Позвали мужика, стали бить корову. Дети услыхали, как на дворе заревела Бурёнушка. Собрались все на печку и стали плакать. Когда убили Бурёнушку, сняли шкуру и разрезали на части, у ней в горле нашли стекло. И узнали, что она издохла от того, что ей попало стекло в помоях. Когда Миша узнал это, он стал горько плакать и признался матери о стакане. Мать ничего не сказала и сама заплакала. Она сказала: – Убили мы свою Бурёнушку, купить теперь не на что. Как проживут малые дети без молока? Миша ещё пуще стал плакать и не слезал с печи, когда ели студень из коровьей головы. Он каждый день во сне видел, как дядя Василий нёс за рога мёртвую, бурую голову Бурёнушки с открытыми глазами и красной шеей. С тех пор у детей молока не было. Только по праздникам бывало молоко, когда Марья попросит у соседей горшочек. Случилось, барыне той деревни понадобилась к дитяти няня. Старушка и говорит дочери: – Отпусти меня, я пойду в няни, и тебе, может, бог поможет одной с детьми управляться. А я, бог даст, заслужу в год на корову. Так и сделали. Старушка ушла к барыне. А Марье ещё тяжелее с детьми стало. И дети без молока целый год жили: один кисель и тюрю ели и стали худые и бледные. Прошёл год, пришла старушка домой и принесла двадцать рублей. – Ну, дочка! – говорит. – Теперь купим корову. Обрадовалась Марья, обрадовались все дети. Собрались Марья со старухой на базар покупать корову. Соседку попросили с детьми побыть, а соседа дядю Захара попросили с ними поехать, выбирать корову. Помолились богу, поехали в город. Дети пообедали и вышли на улицу смотреть: не ведут ли корову. Стали дети судить, какая будет корова – бурая или чёрная. Стали они говорить, как её кормить будут. Ждали они, ждали целый день. За версту ушли встречать корову, уж смеркаться стало, вернулись назад. Вдруг видят: по улице едет на телеге бабушка, а у заднего колеса идёт пёстрая корова, за рога привязана, и идёт сзади мать, хворостиной подгоняет. Подбежали дети, стали смотреть корову. Набрали хлеба, травы, стали кормить. Мать пошла в избу, разделась и вышла на двор с полотенцем и подойником. Она села под корову, обтёрла вымя. Господи, благослови! – стала доить корову; а дети сели кругом и смотрели, как молоко брызнуло из вымя в край подойника и засвистело у матери из‑под пальцев. Надоила мать половину подойника, снесла на погреб и отлила детям горшочек к ужину. | CON BÒ SỮA Trong ngôi làng nọ có một người phụ nữ goá chồng, sống cùng với người mẹ già của mình và 6 đứa con. Họ sống rất nghèo khổ, nhưng cũng gắng sức dành dụm từng đồng để mua cho được một con bò cái để lấy sữa cho lũ trẻ. Con bò này có bộ lông màu nâu xám, nên được lũ trẻ đặt cho cái tên là con Nâu. Ngày ngày những đứa lớn dắt con Nâu ra ngoài ruộng ăn cỏ và khi ở nhà thì lấy nước thải (là nước nấu ăn thừa, nước giặt đồ) cho nó uống. Một lần trong lúc mẹ ở ngoài sân, Mi-sha – cậu con trai lớn với tay lên tủ lấy bánh mì, vô tình làm rơi vỡ cái cốc. Mi-sha sợ mẹ sẽ la mắng, vội lượm hết những miếng thuỷ tinh lớn đem chôn dưới đống phân bò, còn những vụn thuỷ tinh nhỏ, cậu vun vào và vứt chúng vào cái máng. Người mẹ thấy thiếu mất một chiếc cốc, gọi hỏi tất cả lũ trẻ, nhưng Mi-sha không dám nói. Ngày hôm sau, sau bữa ăn, người mẹ đi lấy máng đổ nước bẩn cho con Nâu uống, cô nhìn thấy con Nâu mệt mỏi và và không muốn ăn. Mọi người bắt đầu tìm cách chữa trị cho nó, gọi cả một bà đỡ đẻ trong làng tới coi. Bà ta xem xét con bò một hồi, rồi nói: - Con bò này không sống được lâu nữa đâu, tốt hơn là hãy giết nó lấy thịt đi thôi. Ông đồ tể được gọi tới và thế là con bò bị giết. Lũ trẻ ngồi tụm lại với nhau cạnh bếp sưởi và khóc thút thít khi nghe thấy tiếng con Nâu rống lên quằn quại ngoài sân. Khi mấy người lớn mổ bụng và chặt con Nâu ra làm nhiều phần, thì họ tìm thấy trong cổ của nó có những vụn thuỷ tinh. Và thế là tất cả đã hiểu vì sao con Nâu bị ốm. Khi Mi-sha biết điều đó, cậu bé đã rất hồi hận và thú tội với mẹ của mình, nhưng cô không nói gì và cũng bắt đầu khóc. Cô nói: - Chúng ta đã giết chết con Nâu tội nghiệp. Bây giờ chúng ta cũng chẳng có tiền để mua cái gì cả. Làm thế nào để các em của con sống mà không có sữa đây? Mi-sha càng khóc to hơn và không dám rời khỏi bếp, khi nhìn thấy mọi người ăn món thịt đông được nấu từ đầu con bò. Đêm nào cậu bé cũng mơ thấy chú Va-si-lia cầm cái đầu con Nâu với đôi mắt vẫn còn mở và cái cổ đỏ máu. Cũng từ hôm đó, lũ trẻ không được thường xuyên uống sữa nữa. Chỉ vào các dịp ngày lễ, khi mẹ chúng đi chạy vạy được một bình sửa nhỏ cho chúng. Đúng dịp đó, trong làng có một gia đình giàu có cần tìm vú em cho đứa trẻ mới chào đời. Người mẹ già mới nói với con gái: - Để mẹ tới đó làm vú nuôi, biết đâu Chúa thương xót mà giúp gia đình chúng ta. Còn mẹ, Chúa lòng lành, ở đó 1 năm chắc là đủ tiền cho chúng ta mua con bò mới. Và họ đã quyết như vậy. Người mẹ già tới làm vú nuôi cho gia đình giàu có, còn người mẹ trẻ Ma-ria ở nhà chăm lo cho lũ trẻ, nhưng cuộc sống càng lúc càng khó khăn hơn. Suốt cả 1 năm lũ trẻ chỉ được ăn: nước bột quả và chiu-ria (bánh mì chan nước). Đứa nào cũng trở nên gày gò, xanh xao. Một năm rồi cũng trôi qua, bà lão trở về nhà với 20 rúp tiền công. - Này con, - bà nói. – giờ chúng ta có thể mua bò được rồi. Ma-ria cùng bà lão sửa soạn đi chợ. Họ nhờ người hàng xóm sang trông dùm lũ trẻ, và gọi bác Za-khar đi chọn bò cùng. Họ đã cầu chúa rất nhiều, trước khi lên đường. Những đứa trẻ ăn xong, chạy ra ngoài đường, ngóng chờ con bò mới. Chúng thi nhau đoán con bò mới có bộ lông màu nâu hay màu đen, bàn luận xem sẽ cho nó ăn gì. Chúng cứ đợi như thế cho đến hết ngày. Chúng háo hức tới nỗi, chạy hẳn một dặm để được đón chú bò mới. Lúc này trời đã nhá nhem tối, lũ trẻ định quay trở về, bỗng bất ngờ chúng nhìn thấy: bà ngoại chúng ngồi trên một chiếc xe kéo, còn đi lững thững phía sau xe là 1 con bò lông trắng đen. Mẹ chúng đi ngay đằng sau. Lũ trẻ chạy thật nhanh về phía con bò mới và ngắm nghía nó với tất cả niềm thích thú. Sau đó, chúng tản ra, đi lấy lúa mạch, cỏ ra cho bò ăn. Người mẹ vào nhà thay đồ rồi quay lại ra sân, trong tay không quên cầm theo cái khăn mặt và cái xô. Cô ngồi phía dưới con bò và lau thật sạch những bầu vú của nó. “Cầu chúa, xin chúa ban phước lành cho chúng con!” – và cô bắt đầu vắt sữa. Lũ trẻ ngồi xung quanh và nhìn thèm thuồng từng dòng sữa trắng thơm từ bầu vú con bò đang chảy xuống dưới xô. Khi sữa đã đầy lưng xô, người mẹ xách xô sữa vào hầm chứa và rót ra một bình cho lũ trẻ ăn tối. |