Sưu tầm Thơ - Вариации о вороне – Biến tấu con quạ

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Nhà thơKharlampeva Natalia Ivanovna thăm vịnh Hạ Long, 2012




Maivanphan.vn: Dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền vừa mail cho tôi chùm thơ (10 bài), do Nhà thơ Kharlampeva Natalia Ivanovna dịch từ bản dịch nghĩa của Dịch giả, Nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng, Nhà Việt Nam học Svetlana GlazunovaEvgenhevna. Đây là quà tặng quý giá của các Nhà thơ, Dịch giả đáng kính đã dành cho tôi và các bạn yêu thơ am tường ngôn ngữ Nga trong những ngày đón xuân Ất Mùi này. Tôi xin trân trọng cảm ơn Nhà thơKharlampeva Natalia Ivanovna, Dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền, Dịch giả, Nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng và Nhà Việt Nam học Svetlana GlazunovaEvgenhevna đã dành thời gian, tâm huyết cho việc dịch thơ của tôi sang Nga ngữ!

Nhà thơKharlampeva Natalia Ivanovna, hội viên Hội Nhà văn Liên bang Nga, Thư ký điều hành Hội NV LB Nga. Nhà thơ nhân dân-công dân văn hóa danh dự nước cộng hòa Xakha (Yakutchia). Chủ tịch điều hành Hội Nhà văn nước cộng hòa Xakha (Yakutchia) từ năm 2003. Bà có thơ đăng từ năm 1975, đến nay đã xuất bản hơn 10 cuốn sách...


Được sự đồng ý của Dịch giả, Nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng (chủ biên), chúng tôi xin gửi đến Quý Bạn bài thơ song ngữ Nga – Việt tiếp theo, có tên “Вариации о вороне – Biến tấu con quạ”.





Nhà Việt Nam học Svetlana Glazunova





Dịch giả, nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng




Вариации о вороне



Дыхание смерти тянет фитиль к зениту.
Ярко сияет ворона.




*




Рождение


После крика вороны


Уход, которому нельзя сопротивляться.


Сверток открыт.


Нескрываемая деградация.


Лекарь сжигает свои книги в конце сада,


Срок годности всех новых лекарств на складе уже истек.


Колдуньи несут наказание.


Их рты стянуты железными крюками.




Рождение


Когда колокол внезапно падает


Накрыв с головой старого слугу в храме,


Рыба лишает себя жизни, прыгнув в облака,


Там поперек неба натянута сеть с сотнями тысяч крючков.




Рождение


Чернила и кровь под ногами,


В горле и бронхах застыла сгустками,


Росчерк один на первой странице


Просочился на целую тысячу страниц книги.




Ворона бросается с высоты


На двух своих острых крыльях


Нацелившись на мертвую добычу


Разрывая воздух свистом крыл,


И ветры не успевают


Его остановить.




*




Взгляды вынимает из глазниц


Разрезает язык и вытаскивает,


Сушит под солнцем уроки устной речи,


Отрывает плоть кусок за куском,


Четыре конечности отделяет,


Обнажает все внутренности,


Остается только череп,


Чтоб покрыться мхом


Невозможно написать эпитафию.




*




Вороне снится,


что все смерти распланированы,


после крика вороны


все добровольно легли вниз.




*




Ворона влетела в комнату


палец бессильно поднимается наверх


как дуло ружья,


как лезвие секиры


и может быть,


даже как мотыга,


а может, просто твердый палец,


скорее замерзший,


затем покрытый льдом,


затем полностью растаявший.




*




Не приближайся к тени,


это ворона,


распускающая крылья на закате, на рассвете,


когтями цепляется за ветер,


перемалывая, измельчая сухие листья,


ломая выступающие ветви.




Поэт укрылся в тени.


Каждая буква выдолблена из глаз




*




Надо смотреть


на вещи


пристально,


потому что в мгновение ока


может обрушиться


воронья тень




Моя же тень


не подает голос,


боясь превратиться в цыпленка.




*




Несколько людей поднимаются из толпы, в черных одеждах и черных масках. Они бегут и хлопают руками по бокам. Они пытаются поднять голову вверх. Черная тень стелется над землей.




*




Сидя на дереве после сытной трапезы, объевшаяся ворона дремлет, и снится ей, что каждый кусок пищи, которой набит ее зоб, превращается в яйцо. Воронята гурьбой выбираются из пяти органов чувств и тут же устремляются вниз на охоту за добычей, повинуясь инстинкту хищников.




*




Страдания оглядываются назад на жизнь, которую считают уже почти умершей. Пальто кричит до хрипоты, когда идешь мимо стола и шкафа. Телефон безмолвствует, погрузившись в сон. Скрепка открыла рот, стараясь спрятать свои клыки и когти. Ручка метлы цепляется за руку чернорабочей и тянет ее к мусорной яме. Поля шляпы на голове кричат в ужасе, затем склоняются вниз и объедают все лицо охранника. Никто не открывает ворота. Многие, тем не менее, находят вход.




*




Души, освободившиеся от тел, ищут путь назад, чтобы вернуться и вступить в бой против злобных ворон. После града пуль, не принесших смерть и не нанесших ран, благовонный дым от ароматных палочек стелется и растягивается, превращаясь в доску, на которой написано первое слово нового урока.




*




Это последняя строка завещания:


«Начинайте церемонию небесного погребения в момент, когда появится тень вороны».




*




Ночная тень постепенно проникает в утробу вороны.




И нас подводит утроба вместе с голодной рекой. Капли мутной воды пытаются проникнуть сквозь щели между волокнами ткани. Гладь воды сдерживает колебания, желая сохранить тени людей. Уже зажегши спичку, вспоминаешь, что фитиль далеко. Вскинь руки вверх, возвысь свой одинокий голос в темноте.




Недомогание мучает ворону всю ночь.




От ужаса кричит.




Впервые звук улетает без эха.





















Biến tấu con quạ









Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời


Con quạ rực sáng.




*




Khai sinh


Sau tiếng quạ kêu


Ra đi không cưỡng lại


Gói bọc được mở ra


Sự băng hoại không thể cất giấu


Thày lang đốt sách cuối vườn


Tân dược trong kho đều quá hạn sử dụng


Những phù thủy chịu hình phạt


Miệng bị đóng bởi những móc sắt




Khai sinh


Khi quả chuông rơi xuống bất ngờ


Chụp lên đầu người bõ già


Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn


Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu


Khai sinh


Mực đổ dưới chân và máu


vón cục ở yết hầu, phế quản


Viết một nét lên trang đầu


thấm suốt cả ngàn trang sách.




*




Bổ nhào từ đỉnh cao


Bằng đôi cánh sắc


Lấy tâm điểm xác chết


Chém toác bầu không


Gió hấp tấp không kịp băng bó.




*




Móc từ hốc mắt


những nhãn quan


Di ảnh là vật chứng


Mổ vào lưỡi


và kéo dài


Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ


Bóc từng mảng thịt


Tháo rời tứ chi


Sổ tung lục phủ ngũ tạng




Hộp sọ vừa được dựng lên


Rêu đã phủ đầy


Không viết nổi những dòng bi ký.




*




Con quạ mơ


Mọi cái chết đều được sắp đặt




Sau tiếng quạ kêu


Ai đã tự nguyện nằm xuống.




*




Con quạ bay vào phòng


Một ngón tay giơ lên yếu ớt


Ý nói:


Đây là họng súng


Là lưỡi mác


Thậm chí cuốc thuổng


Thậm chí chính ngón tay rất cứng


Đúng hơn là đông cứng


Rồi băng đá


Rồi rữa tan.




*




Đừng đến gần bóng râm


Chúng là con quạ


Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng đông




Nanh vuốt bám gió


Xay nghiền lá khô


Bẻ những cành vượt




Nhà thơ trú trong bóng râm


Từng con chữ bị khoét mất mắt.




*




Trông


Sự vật


Trừng trừng


Bởi chớp mắt


Bóng quạ


Ập tới.




Bóng mình


Không cất tiếng


Sợ biến thành gà con.




*




Một số người trỗi dậy từ đám đông, khoác áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy, họ vừa đập cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố ngước lên. Bóng đen bay là là mặt đất.




*




Đậu trên chạc cây trong trạng thái bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn đang nén chặt trong diều biến thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt.




*




Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.




*




Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.




*




Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc:


“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.




*




Bóng đêm chui dần vào bụng quạ.




Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.




Con quạ khật khừ xuyên đêm


Thảng thốt kêu




Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại.




M.V.P
 

masha90

Quản lý cấp 1
Модератор
Наш Друг
И нас подводит утроба вместе с голодной рекой. Капли мутной воды пытаются проникнуть сквозь щели между волокнами ткани. Гладь воды сдерживает колебания, желая сохранить тени людей. Уже зажегши спичку, вспоминаешь, что фитиль далеко. Вскинь руки вверх, возвысь свой одинокий голос в темноте.


Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.


Bình lun:


сквозь щели между волокнами ткани = lọt qua các khe hở giữa những thớ thịt.


Từ ткань trong y học còn có nghĩa là kết cấu da hoặc thịt, vì thế trong trường hợp này không thể dịch là vải (trong bụng quạ làm gì có vải!).
 
Top