Sưu tầm Tác phẩm trào phúng kinh điển "Mười hai chiếc ghế"! - "12 стульев"

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 9
MÁI TÓC XOĂN CỦA CHA ĐÂU RỒI?

Trong lúc Ostap xem xét nhà dưỡng lão No2 thì Ippolit Matveevich bước ra khỏi căn hầm của lão quét vườn, cảm thấy cái đầu không tóc lạnh toát, ông bắt đầu đi thăm các đường phố của thành phố quê hương.

Dòng nước mùa xuân trong veo chảy trên mặt cầu. Những giọt băng trên mái nhà nứt vỡ, tan chảy, nhỏ tí tách dưới các mái hiên. Bầy chim sẻ bâu lấy những đống phân ngựa. Mặt trời lấp ló sau các mái nhà. Những con ngựa thồ hàng nặng nề gõ móng cồm cộp xuống mặt đường lát đá, tai cụp xuống như để lắng nghe tiếng gõ móng của chính mình. Trên các cột điện thoại ẩm ướt dán những mảnh giấy thông báo viết chữ nhòe nhoẹt “Dạy chơi ghi-ta theo hệ thống số”“Dạy các bài học xã hội cho thí sinh chuẩn bị thi vào nhạc viện dân tộc”. Một trung đội hồng quân quân đội mũ bịt tai mùa đông đang vượt qua một vũng nước chạy dài từ cửa hàng Stargiko đến tận trụ sở Ủy ban kế hoạch tỉnh mà mặt tiền của tòa nhà được trang trí bằng các tượng thạch cao chạm khắc những con cọp, những trận thắng và những con rắn hổ mang.

Ippolit Matveevich vừa đi vừa hứng thú nhìn những người bộ hành đi ngược lại hoặc đi ngang qua. Ông đã sống ở nước Nga toàn bộ cuộc đời và từ cách mạng đến nay, đã thay hình đổi dạng, đã thay đổi sinh hoạt. Ông đã quen với chuyện ấy, vậy mà tưởng chừng ông chỉ mới quen với một điều trên trái đất - ấy là thị trấn N. trở về thành phố quê hương lần này, ông cảm thấy mình chẳng hiểu điều gì cả. Thấy ông lạ lẫm và mất tự nhiên, tựa hồ ông là Nga kiều thật sự mới từ Pari tới. Ngày xu7am khi ngồi trên xe đi lại trong thành phố, thế nào ông cũng gặp người quen biết. Bây giờ ông đã đi qua bốn đoạn đường trên phố Các sự kiện Lenski, vậy mà không gặp một mặt quen. Họ đã biến mất, hoặc đã già nua đến mức không nhận ra nữa, mà cũng có thể là vì bây giờ họ mặc quần áo khác, đội mũ khác. Có thể họ đổi cách đi đứng. Dẫu sao ông không hề gặp một ai quen biết cả.

Ippolit đi, người rét run, mặt tái nhợt, vẻ lúng túng. Ông quên rằng mình cần tìm đến phòng nhà đất. Ông đi từ hè phố bên này sang hè phố bên kia và thường ngoặt vào những hẻm nhỏ, nơi mà bầy ngựa thồ cố tình gõ móng thật mạnh. Mùa đông còn ngự trị nhiều hơn ở các ngõ hẻm; đây đó vẫn còn băng. Cả thành phố đã đổi màu. Những ngôi nhà màu xanh nước biển đổi thành màu xanh lá cây, màu vàng đổi thành màu xám. Chòi canh cứu hỏa vắng tanh vắng ngắt, đường phố thì ồn ào hơn hẳn ngày xưa.

Trên đại lộ Đại Puskin, Ippolit kinh ngạc vì thấy có đường ray xe điện ngoằn ngoèo mà ngày xưa không hề có ở Stargorot. Ippolit không đọc báo nên không biết rằng đến ngày mồng một tháng năm này ở Stargorot người ta đang chuẩn bị khánh thành hai tuyến đường xe điện Vogzaluaia và Privoznaia. Lúc thì Ippolit có cảm tưởng ông chưa hề xa rời Stargorot, lúc thì ông lại ngỡ mình mới đặt chân đến đây lần đầu.

Với ý nghĩ ấy, ông đi tới phố Mác và Ang-ghen. Ở đây ông cảm giác thời ấu thơ, rằng góc ngôi nhà hai tần có ban công dài kia sắp hiện ra một người quen cũ. Ippolit thậm chí dừng bước chờ đợi nhưng không thấy người quen bước ra. Ban đầu, từ ngôi nhà xuất hiện một anh thợ cắt kính bưng một hòm kính Bema và hộp mát-tít. Rồi đến một gã công tử đội mũ cát-kết vàng may bằng da quý. Tiếp sau là một tốp học sinh tiểu học đeo túi sách.

Bỗng Ippolit Matveevich cảm thấy nóng nực ở hai lòng bàn tay và lạnh toát trong bụng. Đang tiến thẳng về phía ông là một người lạ có khuôn mặt hiền từ, hai tay nâng niu chiếc ghế như một cây đàn Violonsel, Ippolit đột nhiên nấc lên mấy cái nhìn kỹ, lập tức nhận ra chiếc ghế của mình.

Phải rồi! Đích thực đây là chiếc ghế bọc vải hoa Ăng-lê, thứ vải hoa đã xỉn đi trong bão táp cách mạng; đích thực chiếc ghế chân cong làm bằng gỗ hồ đào. Ippolit tưởng đâu sét đánh ngang tai.

- Mài dao kéo đe-e-ê! Ai mài dao kéo đe-e-ê! – Một giọng nam cất lên bên cạnh.

- Ai mua báo “Tin tức”, tạp chí “Thích đùa”, “Ni-va đỏ” đây!...

Ở đâu đó trên cao có tiếng kính vỡ. Một chiếc xe vận tải của công trường nào đấy chạy qua rầm rầm. Tiếng còi ré lên của anh chiến sĩ công an. Cuộc sống sôi sục, trào cả ra ngoài. Không nên để mất thời gian.

Bằng bước nhảy của một con báo, Ippolit Matveevich áp sát kẻ lạ mặt và lẳng lặng giằng lấy chiếc ghế. Kẻ lạ mặt kéo chiếc ghế theo chiều ngược lại. Ippolit bèn dùng tay trái giữ chặt chiếc chân ghế, còn tay kia ráng sức gỡ các ngón tay của kẻ lạ mặt đang bám riết chiếc ghế ra.

- Bớ kẻ cướp, - kẻ lạ mặt thì thầm và càng giữ chặt ghế hơn.

- Bỏ ra, bỏ ra – Ippolit vừa nói liến láu vừa tiếp tục gỡ các ngón tay của kẻ lạ mặt.

Người ta xúm lại đông dần. Đã có ba nhân vật đứng ngay bên cạnh quan sát tình huống xung đột với một thái độ cực kỳ thích thú.

Thấy vậy, cả hai sợ hãi nhìn quanh, rồi không nhìn nhau, song cũng không buông tay ra khỏi chiếc ghế, vội vã dấn bước, tựa hồ chẳng có chuyện gì xảy ra.

“Thế là cái quái gì nhỉ?” – Ippolit tuyệt vọng nghĩ.

Còn kẻ lạ mặt nghĩ gì thì ta không biết, chỉ thấy dáng điệu người ấy vô cung kiên quyết.

Họ đi mỗi lúc một nhanh và thấy một cái hẻm vắng, rãi đầy sỏi các cùng vật liệu xây dựng, họ cùng rẽ vào đó như theo một mệnh lệnh ban ra. Tới đây, sức lực của Ippolit tăng lên gấp bốn.

- Buông ra! – ông hét lên, chẳng e ngại gì nữa.

- Ôi, cứu tôi với! Kẻ lạ mặt kêu lên khe khẽ.

Và vì hai tay của hai người đều bận giữ chiếc ghế, cho nên họ bắt đầu dùng chân chọi nhau. Ủng của kẻ lạ mặt đóng cá sắt nên thoạt đầu Ippolit bị nhiều cú đau nhoi nhói. Nhưng ông nhanh chóng thích nghi bằng cách lúc nhảy sang phải lúc sang trái, như đang nhảy điệu cra-cô-vi-ắc, để tránh đòn của đối phương và cố hạ đối phương, bằng cách đá vào bụng. Nhưng chiếc ghế làm ông vướng víu, không đá được vào bụng kẻ thù. Ông bèn sút vào đầu gối kẻ lạ mặt, khiến y sau đó chỉ còn vận động được một bên chân trái.

- Ôi giời ơi! – Kẻ lạ mặt khẽ rên rỉ.

Lúc này Ippolit nhận ra rằng kẻ lạ mặt đánh cắp chiếc ghế của ông không phải ai khác, mà chính là vị cố đạo của nhà thờ Flor & Lavr, tức cha Fedor Vostrikov.

Ippolit Matveevich sững người.

- Cha mẹ ơi!, Ông thốt lên và kinh ngạc buông tay ra khỏi chiếc ghế.

Cha Fedor cũng tái mặt, buông cả hai tay. Không ai nắm giữ, chiếc ghế rơi phịch xuống chỗ mấy viên gạch vỡ.

- Râu ria của ông đâu rồi, ông Ippolit kính mến – nhà tu hành hỏi bằng giọng thật cay độc.

- Thế mái tóc xoăn của cha đâu? Cha có mấy mớ tóc xoăn kia cơ mà?

Một sự khinh bỉ chưa từng thấy toát ra từ lời lẽ của Ippolit. Ông nhìn cha Fedor bằng một cái nhìn cao quý lạ thường, rồi cúi xuống kẹp nách chiếc ghế, quay mình định bước đi. Nhưng cha Fedor đã hết lúng túng, đâu có để cho Ippolit chiếng thắng dễ dàng như vậy. Miệng kêu: “Xin lỗi, đừng làm thế!” – cha lại chộp chiếc ghế. Thế trận ban đầu được khôi phục! Đôi bên hai tay nắm giữ chân ghế, quắc mắt nhìn nhau như hai con mèo hoặc hai lực sĩ quyền anh, nhùng nhằng kéo qua kéo lại.

Không khí im lặng căng thẳng kéo dài hàng phút.

- Thưa đức cha chí tôn chí kính, - Ippolit nghiến răng kèn kẹt, - vậy là cha muốn săn tìm tài sản của tôi.

Vừa nói, Ippolit vừa đá một miếng ra trò vào đùi đức cha đáng kính.

Cha Fedor khéo léo né tránh và sút vào bẹn đối thủ khiến hắn gập người xuống.

- Đấy không phải là tài sản của ông.

- Thì của ai?

- Không phải của ông, không phải của ông.

- Thế thì của ai? Của ai?

- Không phải của ông.

Miệng vừa rít lên như thế, chân họ vừa phóng cước vào nhau.

- Vậy thì đây là tài sản của ai? – trong lúc tung cước vào bụng đức cha, nhà đô thống quý tộc quát to.

Nén đau, đức cha khẳng định quả quyết:

- Đây là tài sản đã quốc hữu hóa.

- Quốc hữu hóa?

- Phải, phải, đã bị quốc hữu hóa.

Họ nói nhanh lạ lùng, đến nỗi các từ ngữ luyến vào nhau.

- Ai quốc hữu hóa?

- Chính quyền Xô Viết! Chính quyền Xô Viết!

- Chính quyền nào?

- Chính quyền của nhân dân lao động.

- A – a – a! – Ippolit lạnh toát cả người – chính quyền của nông dân và công nhân phải không?

- Đúng thế!

- Hừm…ư…ừm! …Có lẽ, thưa đức cha chí tôn chí kính, đức cha là đảng viên chăng?

- Có thể lắm!

Đến đây thì Ippolit không chịu nỗi nữa, nghe ba tiếng “có thể lắm” ông bèn nhổ một bãi nước miếng vào khuôn mặt đôn hậu của cha Fedor. Cha Fedor lập tức nhổ lại và cũng trúng mặt Ippolit. Chẳng biết lấy gì để lau nước bọt trên mặt, vì bốn cái tay đã bận nắm chiếc ghế cả rồi. Ippolit phát ra một tiếng như tiếng kẹt cửa và dùng hết sức bình sinh đẩy chiếc ghế về phía kẻ thù. Kẻ thù ngã chổng kềnh, kéo theo cả Ippolit đang thở phì phà phì phò. Trận giằng co tiếp diễn trong tư thế nữa nằm nữa ngồi.

Bỗng rắc một tiếng, cả hai chân trước của ghế cùng gãy. Quên hẳn nhau, hai đối thủ bắt đầu hành hạ khối gỗ hồ đào cất giữ của báu. Lớp vải hoa Ăng-lê bọc ngoài bị xé toạc phát ra âm thanh nghe như tiếng kêu thảm thiết của chim hải âu mất bạn. Thành ghế cũng bị lột trần. Mặt ghế với những khuy đồng được bóc xé. Bốn bàn tay thọc ngay xuống lớp lò xo và đám len nhồi. Mấy cái lò xo bị động chạm khẽ rên rỉ. Năm phút sau, cả chiếc ghế tan tành chỉ còn là những mảnh, mẩu. Lò xo mỗi cái quăng một phía. Gió thổi các túm len hôi hám bay phất phơ. Mấy cái chân gãy nằm dưới hố; kim cương chả thấy một hạt.

- Sao, tìm thấy chưa? – Ippolit thở hổn hển, hỏi.

Cha Fedor, người dính đầy sợi len, lặng thinh phủi quần áo.

- Cha là đồ áp-phe! Ippolit quát to – Tôi sẽ vả vỡ miệng cha ra!

- Đâu có dễ, đức cha trả lời.

- Người dính đầy lông len thế này thì cha đi đâu được bây giờ?

- Tôi đi đâu thì dính dáng gì đến ông?

- Nhục quá đấy cha ơi! Cha là quân ăn cắp!

- Tôi chả ăn cắp của ông cái gì!

- Tại sao cha biết chuyện này? Cha lợi dụng bí mật xưng tội cho lợi ích riêng tư chứ gì? Đẹp mặt đức cha quá nhỉ?

Ippolit xì một tiếng rõ dài, rời bỏ con hẻm, vừa đi vừa phủi tay áo bành tô. Ở ngã tư giữa phố các sự kiện Lenski và phố Eroleep, Ippolit nhình thấy vị thành viên ký hợp đồng đang đứng nghiêm người về phía Ippolit, ghếch chân lên thuê đánh giày. Ippolit chạy lại chỗ hắn. Vị giám đốc kỹ thuật đang khẽ hát bài “Simmi”.

Ngày xưa bầy lạc đà làm như thế

Làm như thế, ngày xưa bầy dê núi

Bầy dê núi làm như thế,

Còn bây giờ cả thế giới.

Cả thế giới cùng nhảy điệu “Simmi”

- Tìm ra phòng nhà đất chứ? Ostap hỏi và nói luôn.

- Hượm đã, rồi hãy kể, ông đang xúc động thì phải.

Sau khi cho chú bé đánh giày bảy cô-phết, Ostap kéo tay Ippolit đi dọc phố. Tất cả những gì Ippolit xúc động kể lại đều được Ostap chăm chú lắng nghe.

- Thế hả! Râu lão ta thưa và đen chứ gì? Đúng rồi! Lão ta mặc áo bành tô cổ lông cừu phải không? Tôi hiểu rồi. Đúng là chiếc ghế lão ta mua ba rúp sáng nay ở nhà dưỡng lão.

- Thôi anh cứ để tôi kể nào….

Rồi Ippolit thông báo cho giám đốc kỹ thuật mọi hành động đê tiện của cha Fedor.

Ostap sầm mặt lại.

- Hỏng, - hắn nói – Một đối thủ nguy hiểm. Ta phải nhanh tay hơn nó. Còn cái khoản vả vào mõm nó thì làm lúc nào chẳng được.

Trong lúc hai người ăn chiều ở quán nhậu “Stenka Razin”, khi Ostap biết được phòng nhà cửa trước khia nằm ở đâu và bây giờ ngôi nhà ấy là của cơ quan nào, thì trời vừa tối.

Những con ngựa màu vàng lại trở thành màu nâu, Những giọt nước trong veo đóng băng giữa lúc đang rơi và rơi tanh tách xuống đất. Ở các quán nhậu và ở tiệm ăn “Fenike”, giá bia đã tăng lên vì trời đã tối. Trên đại lộ “Đại Puskin” đèn điện bật sáng, và một đôi thiếu niên tiền phong kết thúc chuyến đi chơi đầu tiên trong mùa xuân đang trên đường về nhà với tiếng trống bập bùng.

Những con cọp, những trận thắng và những con rắn hổ mang đắp trên tòa nhà ủy ban kế hoạch tỉnh sáng lên bí hiểm dưới ánh trăng đang len vào thành phố.

Trên đường quay về với tay Ostap bỗng nhiên trở nên im lặng. Ippolit nhìn những con cọp và rắn hổ mang trên tòa nhà ủy ban kế hoạch tỉnh. Ngày xưa đây là sở điền địa của tình, và người ta rất tự hào về bầy rắn hổ mang, coi chúng là một thắng cảnh của Stargorot.

“Nhất định mình sẽ tìm ra” – Ippolit nghĩ khi ngắm kỹ trận thắng miêu tả bằng thạch cao.

Những con cọp dịu dàng quật đuôi, những con rắn hổ mang vui vẻ thu mình lại, và tâm hồn Ippolit Matveevich tràn ngập niềm tin.
Hết chương 9, xem tiếp chương 10 “ÔNG THỢ NGUỘI, CON VẸT VÀ MỤ THẦY BÓI”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 10
ÔNG THỢ NGUỘI, CON VẸT VÀ MỤ THẦY BÓI

Nhà No7 phố Pereleshin không phải là loại nhà đẹp nhất ở Stargorot. Hai tầng nhà của nó xây dựng theo kiểu đệ nhị đế chế, trang trí bằng những cái mõm sư tử đập vỡ, giống hệt bộ mặt của nhà văn Artsaybashev, ngang với số cửa sổ nhìn ra phố, các mõm sư tử ấy được đặt ở phía trên mỗi cửa sổ.

Ngôi nhà còn có hai vật trang trí nữa, nhưng chúng đã mang tính chất kinh doanh thuần túy. Một phía treo tấm biển màu xanh da trời.

HỢP TÁC XÃ
BÁNH MÌ VÒNG ODESSA
BÁNH MÌ VÒNG MOSKVA


Trên tấm biển vẽ một thanh niên đeo cà-vạt, mặc quần sooc Pháp. Một tay gã cầm cái tù và huyền thoại (1), từ đó trôi ra hàng loại bánh mì vàng Matxcova mà người ta vẫn đem phân phát cho kẻ nghèo khó và thay cho loại bánh mì vòng Odessa. Gã thanh niên mỉm cười dịu dàng. Phía trên kia, văn phòng bao bì “đóng gói nhanh” quảng cáo cho khách hàng kính mến biết về mình bằng một tấm biển nền đen, chữ vàng tròn trịa.

Mặc dù có sự khác nhau rõ rệt về các tấm biển quảng cáo và quy mô vốn lao động, song cả hai hợp tác xã ấy cùng làm một việc là buôn lậu tất cả các loại vải vóc: len dạ, vải bông, và nếu gặp hàng tơ, lụa màu đẹp, hoa tươi, thì họ bao luôn cả tơ lụa.
Vượt qua hai cánh cổng đen và ẩm ướt như trong tun-nen, ngoặt sang phải, bước vào sân có cái giếng xi măng, có thể nhìn thấy hai cửa ra vào không cánh, trông thẳng ra lớp đá nhọn ngoài sân. Ở cửa bên phải có một miếng đồng xỉn màu, khắc tên họ:
V.M. POLESOV

Cửa bên trái gắn một mảnh tôn trắng
MỐT THỜI TRANG VÀ MŨ

Cả hai thứ đó cũng chỉ là vẻ bề ngoài.

Trong lòng cái xưởng “Mốt thời trang và mũ”: không thấy một thứ ma-nơ-canh cụt đầu, có gù vai sĩ quan nào, cũng chẳng thấy có cái móc nào để treo những thứ mũ nón kiều diễm của các bà các cô. Thay vì các thứ trang trí phải có ấy, trong căn xưởng rộng ba phòng liền này chỉ thấy một con vẹt trắng tuyền mặc si-líp màu đỏ. Con vẹt bị lũ bọ chét đốt dữ, nhưng nó không thể hiện khiếu nại với ai, bởi lẽ nó không nói được tiếng người. Suốt ngày nọ sang ngày kia, con vẹt nhâm nhi nhúm hạt và nhổ vỏ hạt qua thanh đan ***g nhốt nó xuống tấm thảm. Nó chỉ còn thiếu mỗi cái kèn Ac-mô-ni-ca và đôi giày mới là đủ để giống hệt một tay thợ thủ công cá thể kém may mắn. Trên cửa sổ, các tấm rèm cháo lòng khẽ lay động. Trong căn hộ này, màu nâu sẫm chiếm ưu thế. Phía trên Piano treo một phiên bản bức ảnh “Đảo tử sĩ” của Bekhin, đặt trong cái khung bằng gỗ sồi màu xanh thẫm, ***g kính hẳn hoi. Một góc kính đã bay mất hồi nào, phần tranh trơ ra bị ruồi bâu nhiều đến mức trở nên hoàn toàn đồng màu với khung. Điều gì xảy ra ở góc “Đảo tử sĩ” này, chẳng ai còn có thể biết được nữa.

Trong buồng ngủ, nữ chủ nhân đang ngồi trên giường, tì khuỷu tay cuống mặt bàn hình bát giác trãi một chiếc khăn nhem nhuốc, thoăn thoắt bày cỗ bài. Đối diện với chủ nhân là góa phụ Gritsasueva choàng tấm khăn len sẫm màu.

Chủ nhân nói:

-Này tiểu thư, tồi cần báo trước cho cô biết rằng, mỗi lần xem cô phải trả cho tôi ít nhất năm chục cô-phết đấy.

Góa phụ là người bất chấp mọi trở ngại trên con đường tìm cho được tấm chồng mới, đồng ý trả công theo giá quy định.

-Có điều xin thầy nói rõ hậu vận cho, - góa phụ van nài.

-Phải bói cho cô theo con chuồn.

Góa phụ phản đối:

-Từ xưa đến giờ bao giờ em cũng là con đầm kia mà.
Nữ chủ nhân thản nhiên đồng ý và bắt đầu tráo bài. Chỉ vài phút sau, số mệnh của góa phụ đã được giải đoán. Nàng sẽ gặp những chuyện rủi ro lớn và nhỏ, nhưng trong tim nàng đang có một chú ách chuồn rất hợp với cô đầm rô.

Tiếp đến đoán chỉ tay. Chỉ tay của góa phụ Gritsasueva rõ ràng, đậm nét và không chê vào đâu được. Sinh đạo chạy dài đến cả tận mạch cổ tay, và nếu đường chỉ ấy nói đúng sự thật, thì góa phụ sẽ sống đến ngày tận thế. Trí đạo và đường nghệ thuật cho phép hy vọng rằng góa phụ sắp bỏ nghề bán kẹo bánh và chắc chắn sẽ bán cho nhân loại những kiệt tác bất hủ trong bất cứ ngành khoa học nào. Gò kim tinh của góa phụ giống như núi đồi Mãn Châu Lý và bộc lộ những trữ lượng yêu thương vô bờ bến.

Thầy bói giảng giải tất cả những điều đó cho góa phụ nghe bằng ngôn ngữ của tướng số, của thuật xem chỉ tay và của bọn lái buôn ngựa.

-Cảm ơn thầy lắm lắm – góa phụ nói – bây giờ thì em biết vua chuồn là ai rồi. Cả đầm rô cũng vậy. Thế vua chuồn và đầm rô đồng hoa chứ ạ?

-Đồng hoa đấy, thưa tiểu thư.

Góa phụ ra về lòng lâng lâng như mọc cánh. Còn thầy bói thì ném cỗ bài vào ngăn kéo, há cái miệng của người đàn bà ngũ tuần ra ngáp rồi đi vào bếp. Bà ta xử lý bữa ăn trưa được hâm lại trên bếp dầu hỏa nhãn hiệu “Grets” lau tay vào tạp dề cho sạch thức ăn, rồi sách chiếc xô bong men nham nhở đi ra sân lấy nước.

Bà bước nặng nề ì ạch trên sân. Gò ngực nhẽo thõng xuống cứ uể oải đung đưa trong cái áo nhuộm lại. Trên đầu nổi lên một khoanh tóc bạc. Một bà già ăn ở bẩn thỉu, nhìn ai cũng thấy nghi ngờ và rất ưa ngọt. Ví thử Ippolit gặp bà lúc này thì ông không sao nhận ra đấy là Elena Bour, người tình cũ của ông, lớp người đã được một viên mõ tòa làm thơ ca ngợi rằng “nàng gọi những cái hôn, nàng thanh thoát như thiên thần”. Cạnh cái giếng nước, bà Bour được ông láng giềng Vikor Mikhailovich Polesov chào hỏi. Polesov là một ông thợ nguội trí thức, ông đang lấy nước vào chiếc bi-đông đựng xăng. Polesov có bộ mặt của con quỷ Opera mà người ta vẫn xoa bồ hóng thật cẩn thận trước khi thả nó ra sân khấu.

Chào hỏi xong, hai vị láng giềng bắt đầu nói về những chuyện đang khiến cả thành phố quan tâm.

Polesov giễu cợt:

-Đời thuở nhà ai hôm qua tôi chạy khắp cả thành phố mà không mua được một cái bàn ren ba tấc tám. Không có. Không có!. Mà này, sắp khánh thành đường tàu điện đấy bà ạ.

Elena Bour hiểu về cái bàn ren ba tấc tám cũng hệt như một cô nữ sinh trường múa mang tên Leonacdo De Vinci hiểu biết về nông nghiệp (Cô nàng cho rằng phó mát tươi làm từ bánh mằn thắn) song vẫn tỏ vẻ thông cảm:

-Hàng với chả quán gì bây giờ! Bây giờ chỉ có xếp hàng thôi, chứ chẳng thấy cửa hàng đâu. Ngay đến tên cửa hàng nghe cũng phát khiếp. Stargico!...

-Nhưng thế còn khá đấy, bà Elena ạ! Loại mô-tơ của “Công ty điện phổ dụng” mới gớm ghiếc làm sao. Nghĩa là khốn khổ! Khốn nạn! Loại mô-tơ làm ở Kharkov cũng thế nốt. Do cái công ty gì mà tên dài lằng ngòa lằng ngoằng“Công ty kim loại màu công nghiệp quốc doanh – contikilomaconghiqudo” sản xuất ấy. Tôi thấy…

Ông thợ nguội ngừng lời. Bộ mặt đen nhẻm của ông bóng lên dưới ánh nắng. Lòng trắng mắt của ông màu vàng. Trong đám thợ thủ công có mô-tơ đầy rẫy ở Stargorot, Polesov là tay chậm chạp nhất và hay lâm vào tình thế khó xử nhất. Tất cả là do cái bản tính sôi sục của ông ta. Một ông vua lười sôi sục. Ông thường xuyên sủi bọt. Trong căn xưởng của chính ông nằm ở cái sân thứ hai của ngôi nhà No7 trên phố Pereleshin, không ai hòng bắt gặp được ông. Cái bể lò rèn nguội lạnh đứng trơ trọi giữa chái nhà kho bằng đá, trong góc kho vứt chỏng chơ những cái ruột xe thủng , những cái mặt vỏ xe “tam giác”, những cái chìa khóa rỉ, to đến mức có thể khóa các thành phố, - những cái can mềm đựng chất đốt có in chữ “Indian” và “Wanderer”, một cái xe nôi lò xo, một cái loa đã tịt tiếng vĩnh viễn, những cái dây thắt lưng da đã mủn, túm sợi gai tẩm dầu, tờ giấy cáo hết cát, cái lưỡi lê Áo và vô số thứ lặt vặt, linh tinh, méo mó. Khách hàng không tìm ra Polesov. Ông đang chỉ huy ở nơi nào đó. Ông không bụng dạ nào nghĩ đến công việc. Ông không thể bình thản nhìn một chiếc xe chở hàng chạy vào sân nhà mình hay sân nhà người khác. Nếu thấy, ông sẽ lập tức chạy ra sân, chắp hai tay sau đít, khinh bỉ nhìn động tác của người đánh xe, cuối cùng trái tim ông không nín được.

-Đứa nào cho xe vào đây thế? – Ông hét tướng lên – Quay ra!

Người đánh xe sợ hãi cho ngựa quay ra.

-Mày quay đi đâu thế, đồ ngựa cái – Polesov phát vào mông ngựa – ngày xưa thì mày chết với tao rồi.

Sau khi chỉ huy như thế chừng nữa giở, Polesov đã định vào xưởng, nơi chiếc bơm xe đạp hỏng đang chờ ông, thì cuộc sống bình an của thành phố lại bị phá vỡ bởi một sự lầm lẫn nào đấy. Khi thì ở ngoài đường hai chiếc xe ngựa bị móc trục vào nhau và Polesov phải chỉ bảo cách gỡ chúng ra thế nào cho nhanh; khi thì người ta thay cột điện thoại, và Polesov phải kiểm tra độ vuông góc của nó với mặt đất bằng chính cái quả dọi của ông được lôi từ trong xưởng ra; khi thì chiếc xe cứu hỏa ngựa kéo chạy qua, và Polesov hồi hộp vì tiếng kèn và lo lắng cho đám cháy, phải chạy theo một quãng xem sao.

Thế nhưng thỉnh thoảng Polesov cũng có hành động tự phát thật sự. Ông trốn trong xưởng mấy ngày và lặng lẽ làm việc. Trẻ con tha hồ chạy nhảy hò hét ngoài sân, những chiếc xe ngựa muốn rẽ vào đây quay đầu bao nhiêu vòng tùy thích, những chiếc xe khác nói chung ngừng móc trục vào nhau, và xe cứu hỏa lăn bánh cô đơn ngoài đường – Polesov đang bận làm việc. Một hôm, sau đợt làm việc liên tục như vậy, Polesov dắt ra sân – như thể đang nắm sừng dắt cừu – một chiếc xe mô tô lắp từ các mẩu mảnh ô tô, bình cứu hỏa, xe đạp và máy chữ. Động cơ một mã lực rưỡi vốn của hãng “Wanderer” bánh xe của hãng “Davidson”, còn các bộ phận quan trọng khác thì đã mất nhãn từ lâu. Từ trên yên xe, một sợi dây treo lòng thòng mảnh các-tông đề chữ “chạy thử”. Người xem đông dần. Polesov thượng lên yên xe và chiếc xe lao vọt như điên, đưa ông bay qua cánh cổng, ra đến giữa đường thì sững lại đột ngột như bị ăn đạn. Polesov đang định xuống xe kiểm tra cái máy bí hiểm của mình, thì bỗng dưng nó chạy giật lùi, đưa nhà sáng chế trở về đúng vị trí xuất phát, gầm gầm gừ gừ, đoạn rú lên mấy tiếng thất thanh và nổ tung. Polesov lành lặn như nhờ có phép màu. Ông thu nhặt các mẩu mảnh và trong kỳ mãi mê làm việc đó, ông tạo ra một cái động cơ tĩnh tại trông hệt như động cơ chính cống, chỉ tội không chạy được.

Đỉnh cao hoạt động khoa học của ông thợ nguội – trí thức là thiên sử thi liên quan đến cái cổng sắt của nhà No5 bên cạnh. Ban quản trị ngôi nhà ấy có ký với Polesov một hợp đồng, theo đó Polesov có nghĩa vụ sửa chữa nghiêm chỉnh hai cánh cổng sắt của họ và sơn cho nó một cái màu kinh tế nào đó tùy ý. Còn bên kia là ban quản trị thì có nghĩa vụ là lập tổ nghiệm thu và khi nhận bàn giao phải trả cho V.M Polesov hai mươi mốt rúp bảy mươi lăm cô-phết. Tiền mua tem thuế trừ vào bên sửa chữa.

Polesov dùng đến sức lực của Samson mới đưa được hai cánh cổng về xưởng và ông hăng hái bắt tay vào việc. Riêng khoản tháo rời từng bộ phận đã tốn mất hai ngày. Các chiếc móc bằng gang được để vào chiếc xe nôi, mấy tấm sắt và thanh nhọn thì để dưới bàn thợ. Thêm mấy ngày nữa để nghiên cứu những chỗ hỏng hóc. Sau đó trong thành phố xảy ra một sự cố trầm trọng: một khúc đường ống dẫn nước chính bị vỡ. Thành thử mấy ngày còn lại trong tuần Polesov phải đến đứng cạnh nơi xảy ra sự cố, mỉm cười giểu cợt, quát lác các công nhân sửa chữa và chốc chốc lại ngó vào ống vỡ.

Khi nhiệt tình tổ chức của Polesov lắng xuống đôi chút, ông lại tiếp tục xem xét cái cổng sắt, nhưng đã muộn: lũ trẻ đã lôi những cái móc bằng gang và những thanh sắt nhọn đi chơi. Trông thấy vẻ mặt hung hãn của ông thợ nguội, lũ trẻ sợ hãi vứt bỏ các thứ ấy và lủi mất sạch. Thiếu hẳn một nữa số móc và không tìm đâu ra nữa. Sau đó, Polesov hoàn toàn lạnh nhạt với cái cổng sắt.


Trong khi ấy ở ngôi nhà No5 thông thống vì không có cổng, xảy ra những sự kiện khủng khiếp. Quần áo ướt phơi trên gác bị mất cắp và một buổi tối thậm chí kẻ cắp dám nẫng đi ngay cả một cái ấm Smova đang sôi sùng sục ở ngoài sân. Polesov đích thân tham gia. Tên trộm, mặc dù hai tay hắn giơ thằng ra phía trước, bưng cái ấm đang sôi sùng sục và đỏ lửa, vẫn chạy rất tỉnh và còn quay lại nói những lời thiếu sạch sẽ với người dẫn đầu đoàn đuổi bắt phía sau là Polesov. Nhưng đau nhất là tay lao công nhà No5. Cha này bị mất hẳn khoản tiền kiếm được hằng đêm: không có cổng, chả còn gì để mở, và những kẻ đi chơi khuya về chẳng biết cho tiền vì lý do gì nữa. Ban đầu me-xừ lao công sang hỏi Polesov xem sắp chữa cổng xong chưa, rồi cầu chúa Ki-tô phù hộ và cuối cùng phải lên tiếng đe dọa. Ban quản trị bèn gửi cho Polesov một bức thư nhắc nhở. Chuyện có vẻ ra tòa đến nơi. Tình hình ngày một thêm căng thẳng.

Bên giếng nước, mụ thầy bói và ông thợ nguội – trí thức vẫn đang tiếp tục trò chuyện. Polesov nói oang oang:

-Nếu không có những thanh tà-vẹt ngâm tẩm thì chẳng còn là tàu điện, mà chỉ là bể khổ thôi!

-Đến bao giờ mới hết cái cảnh này không biết. Chúng ta sống như bọn mọi rợ! – bà Elena Bour nói.

-Còn là lâu… À, bà biết sáng nay tôi gặp ai không? Gặp Ippolit Matveevich Vorobjaninov.

Elena Bour tựa người vào thành giếng ngạc nhiên tiếp tục giữ cân cho cái gầu đầy nước.
- Tôi đến sở công trình công cộng để gia hạn hợp đồng thuê xưởng nguội. Tôi đi dọc hành lang. Bỗng có hai người tiến lại. Tôi thấy nhang nhác quen, ai như ngài Ippolit Matveevich. Họ hỏi tôi: “Bác ơi, cơ quan nào đóng ở tòa nhà này hồi trước hở bác?” Tôi bảo hồi xưa là trường trung học con gái, sau đó là phòng nhà đất. “Thế hai vị hỏi vậy làm gì?” tôi hỏi họ. Họ chỉ cám ơn rồi đi tiếp. Lúc ấy tôi nhìn rõ rằng, đích thị ngài Ippolit, dù không để râu. Ông ấy từ đâu về nào? Cái người đi chung với ông ấy trông ra dáng lắm. Chắc chắn là sĩ quan thời Sa Hoàng. Tôi liền nghĩ rằng….

Vào lúc ấy, Polesov nhận ra một hiện tượng bất thường gì đó. Ông chộp vội chiếc bi-đông của mình và lẫn ngay vào phía sau thùng rác. Me-xừ lao công nhà No5 chậm rãi bước vào sân, dừng chân bên cạnh giếng và bắt đầu ngắm bốn phía. Không thấy Polesov đâu, lão ra xịu mặt xuống.

-Bà có thấy thằng cha thợ nguội Polesov đâu không? – Lão ta liền hỏi Elena Bour.

-Dào ôi, tôi chẳng biết gì hết – mụ thầy bói đáp – tôi chẳng biết gì hết.

Đoạn bà vội vã quay về phòng trong tâm trạng vô cùng xúc động, làm xô nước sóng sánh cả ra ngoài.

Me-xừ lao công xoa xoa thành giếng xi măng rồi bước về phía xưởng nguội. Hai bước sau tấm biển:

LỐI VÀO
XƯỞNG NGUỘI


Lại có tấm biển thứ hai
XƯỞNG NGUỘI
VÀ SỬA CHỮA BẾP DẦU

Ngay bên dưới có một cái ổ khóa tổ bố. Me-xừ lao công đá một cú thật mạnh vào cái khóa và giận dữ nói:

-Đồ ôn dịch!

Me-xừ lao công còn đứng trước cửa xưởng ba phút nữa với những tình cảm ghê gớm nhất, đoạn lão giật mạnh tấm biển, bắt đầu chửi:

-Nhà No7 của chúng mày toàn một lũ trộm cắp! – Lão hét to – Rặt bọn lưu manh! Có bằng trung học mà vận khốn nạn!... Tao thì nhổ toẹt vào cái học thức của nó!... Quân ôn dịch khốn nạn!....

Trong lúc ấy quân ôn dịch khốn nạn có bằng trung học đang ngồi trên cái bi-đông nấp sau thùng rác, vẻ buồn bã.

Tiếng cửa sổ mở sầm sầm, những chủ hộ vui tính ló mặt ra cửa. Những người tò mò từ ngoài phố thong thả kéo vào. Thấy công chúng, me-xừ lao công càng hăng máu.

-Thằng cha thợ nguội khốn nạn! Đồ quý tộc chó má!
Những câu diễn văn nghị viện được me-xừ lao công pha trộn thoải mái với những từ ngữ mà cơ quan kiểm duyệt gạch xóa, song lão thì lại rất thích. Đám phụ nữ bám đen trên các cửa sổ rất giận me-xừ lao công, nhưng vẫn cứ đứng nghe.

-Đ… mẹ thằng khốn nạn! – me-xừ lao công chồm lên – trí thức cức gì nó?

Khi xì-căng-dan tới đỉnh điểm, một chiến sĩ công an xuất hiện là lặng lẽ lôi me-xừ lao công về đồn. Mấy thanh niên ở hợp tác xã “Đóng gói nhanh” giúp vào đó một tay.

Me-xừ lao công ngoan ngoãn ôm lấy cổ anh công an và khóc sụt sùi.

Nỗi nguy hiểm đã qua.

Từ sau thùng rác, lúc ấy Polesov mới nhảy ra vì ngồi mãi cũng tê chân. Công chúng rộn lên.

-Đồ lưu manh! – Polesov hét với theo đoàn giễu hành – Đồ lưu manh! Rồi tao sẽ cho mày biết tay! Quân thối tha!

Me-xừ lao công đang cay đắng sụt sùi đâu có nghe thấy lời hăm dọa ấy. Người ta điệu lão ta về đồn, kèm theo tấm biển “Xưởng nguội và sửa chữa bếp dầu” làm tang chứng.

Polesov còn chửi bới hồi lâu.

-Quân chó má – ông ta nói, hướng về phía người xem – Ra cái vẻ ta đây! Đồ lưu manh!

-Ông Polesov ơi – từ trên cửa sổ, bà Elena Bour gọi – Mời ông lên tôi hỏi cái này một chút với!

Bà ta đặt trước mặt Polesov một cốc nước hoa quả và vừa đi đi lại lại trong phòng, vừa hỏi hết câu này đến câu kia.

-Thì tôi đã bảo bà rằng đích thực là ông ấy, tuy không để râu, nhưng đúng là ông ấy mà – Polesov nói to như quát theo thói quen của ông ta – tôi biết ông ta quá rõ! Ippolit, không chệch vào đâu được!

-Trời ơi, xin ông nói khẽ chứ! Ông ấy về đây làm gì nhỉ? Ông nghĩ sao?

Trên bộ mặt đen nhẻm của Polesov nở một nụ cười mỉa mai.

-Dù sao thì cũng không phải về để ký hợp đồng với bọn bonsevich.

-Ông nghĩ rằng Ippolit ở trong tình thế nguy hiểm ư?

Trữ lượng mỉa mai mà Polesov tích lũy trong mười năm sau cách mạng quả là vô tận. Ông ta cho nở ra hàng loạt nụ cười có sức mỉa mai và hoài nghi khác nhau.

-Ai sống ở nước Nga Xô Viết mà chẳng gặp nguy hiểm, nói chi đến một người vốn có địa vị như Ippolit Matveevich kia chứ? Không phải bỗng dưng người ta cạo sạch râu ria đi đâu, bà Elena Bour ạ.

-Ông ấy được phái từ ngoại quốc về à? – bà Elena Bour nói, suýt nữa bị nghẹn thở.

-Lẽ cố nhiên – ông thợ nguội thiên tài trả lời.

-Ông ấy về đây làm gì nhỉ?

-Bà chớ giả bộ ngây thơ nữa.

-Gì thì gì tôi cũng phải gặp ông ấy.

-Bà có biết nguy hiểm đến thế nào không?

-Mặc kệ! Sau mười năm xa cách, tôi không thể không gặp lại Ippolit Matveevich.

Quả thực bà ta cứ tưởng số phận đã chia cắt họ đúng vào lúc hai người yêu đang yêu nhau.

-Tôi van ông, ông hãy đi tìm ông ấy cho tôi! Ông hãy cố lần ra chỗ ông ấy ở! Ông hãy có mặt ở khắp nơi! Ông làm việc đó dễ thôi! Ông hãy bảo Ippolit rằng tôi mong gặp ông ấy lắm lắm! Ông nghe rõ chứ?

Con vẹt mặc si-líp đỏ đang ngủ gà ngủ gật trong ***g, chợt giật mình sợ hãi tiếng người nói to. Nó lộn đầu xuống dưới và lặng đi trong tư thế đó.

Lão thợ nguội ngập ngừng đứng dậy, hai tay áp ngực nói: “Bà Elena Bour, tôi sẽ tìm ông ấy và sẽ bắt liên lạc.

-Có lẽ ông muốn ăn mức hoa quả đấy nhỉ? – mụ thầy bói xúc động hỏi.

Polesov ăn hết đĩa mứt, giảng giải tỉ mỉ về kiểu cấu tạo dốt nát của chiếc ***g vẹt rồi chia tay với Elena Bour sau khi dặn bà ta giữ kín tất cả mọi chuyện vừa rồi.

(1) Kiểu như cái nồi thạch sanh trong truyện cổ tích Việt Nam.
Hết chương 10, xem tiếp chương 11 “VẦN CHỮ CÁI “TẤM GƯƠNG CỦA CUỘC SỐNG”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 11​
VẦN CHỮ CÁI
TẤM GƯƠNG CỦA CUỘC SỐNG

Ngày hôm sau, hai bên ký kết hợp đồng tin rằng sống thêm trong căn hầm của lão quét vườn là không tiện. Lão Tikhon thì luôn miệng lầm bà lầm bầm, hoàn toàn ngớ người ra sau khi nhìn ông chủ cũ đầu tiên có bộ ria đen, tiếp đến ria xanh và cuối cùng thì không tóc, không ria. Ngủ, chẳng có chỗ nào. Căn nhà hầm lại nồng nặc mùi phân ngựa do đôi ủng mới của Tikhon đưa từ ngoài vào. Đôi ủng cũ vứt ở góc nhà cũng tỏa mùi khăn khẳn, trong khi không khí hoàn toàn tù đọng.

-Tôi cho rằng buổi dạ hội kỷ niệm sự gặp gỡ đã đến lúc kết thúc – Ostap nói – cần phải chuyển đến ở khách sạn.

Ippolit Matveevich giật mình.

-Làm thế nào được.

-Vì lẽ gì?

-Đến khách sạn phải đăng ký tạm trú.

-Thẻ căn cước của ông có vấn đề à?

-Không, thẻ căn cước là thật, nhưng ở thành phố ngày người ta biết rõ tên họ của tôi. Sẽ lắm chuyện.

Hai kẻ đồng hội đồng thuyền im lặng ngẫm nghĩ.

-Thế ông có thích cái tên Mikhelson không? Đột nhiên Ostap hỏi.

-Mikhelson nào? Nghị sĩ à?

-Không, ủy viên công đoàn ngành thương nghiệp Liên Xô kia.

-Tôi chưa hiểu ý anh.

-Tại vì ông chưa có kỹ xảo kỹ thuật đó thôi. Đừng có ra vẻ ngây thơ.

Ostap rút từ trong túi áo vét xanh ra tấm thẻ đoàn viên công đoàn và chìa cho Ippolit.

-Kondrovich Mikhelson, bốn mươi tám tuổi, không đảng phái, chưa vợ, đoàn viên công đoàn từ năm 1921, đạo đức tư cách vào loại cực kỳ, là người quen của tôi, hình như là bạn của trẻ con…. Nhưng ông có thể không cần kết bạn với trẻ con, vì công an không đòi hỏi điều đó ở ông.

Ippolit ngần ngại:

-Liệu có tiện không?

-So với dịch vụ của chúng ta, hành động giả mạo này tuy đã bị dự kiến trong bộ luật hình sự, song nó chỉ là trò trẻ con vô tội mà thôi.

Ippolit vẫn thấy lo lo.

-Ông duy tâm quá, ông Kondrovich Mikhelson ạ, vậy là còn may đó, có khi, ông hãy tưởng tượng, ông phải trở thành Đức giáo hoàng hoặc một quan chức cỡ bự nào đó nữa kia!

Tiếp đó là sự đồng ý nhanh chóng, và hai thành viên hợp đồng không buồn chia tay với lão Tikhon, bước ngay ra đường.

Họ dừng lại ở khách sạn “Sorbonna”. Ostap làm cho toàn bộ biên chế ít ỏi của ô-ten, cuống quít cả lên. Đầu tiên hắn đi xem tất cả các phòng cho thuê với giá bảy rúp, nhưng hắn vẫn không hài lòng về cách bày trí đồ đạc ở đây. Cách bày trí của những phòng giá năm rúp khiến y thích hơn, nhưng thảm ở đây tả quá và tỏa mùi khó chịu. Các phòng ba rúp thì tất cả mọi thứ đều đạt, trừ các bức tranh.

-Tôi không thể sống trong một căn phòng treo tranh phong cảnh, - Ostap nói.

Đành phải thả neo ở căn phòng cho thuê với giá một rúp tám mươi cô-phết. Tại đây không treo tranh phong cảnh, không trải thãm, còn đồ đạc thì cực kỳ giản tiện: Chỉ có hai chiếc giường và một cái táp-đơn-nuy.

-Phong cách thời đại đồ đá đây rồi! – Ostap nhận xét với vẻ hài lòng. – Thế đệm giường có nuôi các động vật thời tiền sử không đấy?

-Cái đó còn tùy mùa – nhân viên trực hành lang ranh mãnh trả lời – Giả dụ có kỳ đại hội nào đó của tỉnh, thì dĩ nhiên là không có, bởi vì khách rất đông. Cho nên trước đó phải dọn vệ sinh cật lực. Còn những lúc khác thì quả là có, những đấy là chúng bò từ khách sạn “Livadia” bên cạnh sang.

Ngay hôm ấy hai thành viên ở hợp đồng đến sở công trình công cộng và nhận được những tin tức cần biết. Thì ra phòng nhà đất đã bị giải thể từ năm 1921 và số tài liệu lưu trữ phong phú của nó đã nhập vào khối tài liệu lưu trữ của sở công trình công cộng.

Vua mánh bắt tay vào việc. Chiều tối, hắn đã biết địa chỉ gia đình viên chủ nhiệm kho lưu trữ Varfolmei Korobeinikov, nguyên đổng lý văn phòng tòa thị chính, nay là cán bộ văn phòng.

Ostap thắng chiếc áo ghi-lê đen, đập chiếc áo vét vào thành giường để phủi bụi, đòi Ippolit đưa một rúp hai mươi cô-phết để làm lễ ra mắt và đi gặp viên chủ nhiệm kho lưu trữ. Ippolit ở lại ô-ten “Sorbonna” và hồi hộp, bồn chồn đi đi lại lại giữa hai chiếc giường. Buổi tối xanh và lạnh hôm nay sẽ quyết định số phận toàn bộ dịch vụ này. Nếu kiếm được bản sao các phiếu phân phối số đồ gỗ lấy ở biệt thự nhà Ippolit thì có thể coi như công chuyện đã thắng lợi một nữa. Tiếp đó sẽ gặp những khó khăn và dĩ nhiên là ngoài sức tưởng tượng, nhưng dẫu sao cũng lần được sợi chỉ trong tay.

Ippolit buông người xuống giường, thì thầm:

-Chỉ mong kiếm được các tấm phiếu! Chỉ cần kiếm được các bản sao!...

Lò xo của cái đệm rách cắn ông như rệp đốt. Ông chẳng cảm thấy điều đó. Ông chưa hình dung rõ sự việc sẽ ra sao sau khi kiếm được các tấm phiếu ấy, nhưng tin rằng tất cả sẽ trơn tru như được lau mỡ: “Mà có mỡ thì mới nổi đình đám được”, - Chả hiểu sao tự nhiên ông nghĩ như vậy.

Say sưa với ước mơ màu hồng, Ippolit cứ trở mình từ bên này sang bên kia. Lò xo cắn ông ghê quá.

Ostap phải vượt sang đầu kia của thành phố, Korobeinikov sống ở khu Gusisa tận ngoại ô thành phố. Dân ở đây phần đông là thuộc ngành đường sắt. Đôi khi, trên tuyến đường xe lửa cao hơn các mái nhà, có một cái hàng rào bê tông mỏng ngăn cách, một đầu máy xe lửa chạy giật lùi. Lò lửa ở đầu máy soi sáng các mái nhà trong giây lát. Đôi khi có những toa rỗng chạy qua, đôi khi có tiếng pháo lệnh nổ lục bục. Giữa các dãy lán tạm thời nổi lên dãy tường gạch dài của những ngôi nhà ẩm ướt xây dựng theo phương thức góp vốn.

Ostap đi qua một hòn đảo sáng, đó là câu lạc bộ đường sắt, giở mảnh giấy kiểm tra địa chỉ và dừng chân cạnh ngôi nhà nhỏ của viên chủ nhiệm kho lưu trữ. Hắn giật cái dây chuông có đề mấy chữ “Hãy giật chuông”.

Sau nhiều câu căn dặn “gặp ai”, “để làm gì” người ta mở cửa cho hắn bước vào một căn phòng tối, kê tủ la liệt. Trong bóng tối có ai đó thở vào mặt Ostap, nhưng không nói gì cả.

-Ở đây ai là ông Korobeinikov thế? – Ostap hỏi.

Kẻ thở hổn kia cầm lấy tay Ostap dẫn vào phòng ăn có ánh đèn dầu dọi sáng. Ostap thấy trước mặt mình là một lão già loắt choắt có cái lưng mềm dẻo lạ thường. Không còn nghi ngờ gì nữa, lão già này đích là công dân Korobeinikov. Chẳng đợi mời mọc, Ostap kéo ghế và ngồi xuống.

Lão già mạnh bạo nhìn vị khách quá đỗi tự nhiên, lão im lặng, Ostap lịch sự lên tiếng trước.

-Tôi đến gặp bác có chút việc. Bác làm ở kho lưu trữ của sở công trình công cộng phải không ạ?

Cái lưng của lão già vận động, cúi gập xuống ra hiệu: đúng thế.

-Còn ngày trước bác làm ở phòng nhà đất?

-Tôi làm ở khắp mọi nơi – lão già vui vẻ đáp.

-Thậm chí cả văn phòng tòa thị chính thời xưa?

Đồng thời Ostap mỉm cười duyên dáng. Cái lưng của lão già uốn éo hồi lâu, cuối cùng mới dừng lại ở tư thế chứng tỏ rằng việc phục vụ ở tòa thị chính là xưa quá rồi và rằng bây giờ khó mà nhớ hết mọi việc.

-Cho phép tôi được biết anh cần gì chứ? Chủ nhà thích thú nhìn khách, hỏi.

-Được, tôi cho phép – khách đáp – tôi là con của Ippolit Matveevich Vorobjaninov.

-Ippolit nào nhỉ? Có phải ngài đô thống không?

-Đúng thế.

-Ngài còn sống ư?

-Mất rồi, ông Korobeinikov ạ, yên giấc rồi.

-Phải, một sự kiện đáng buồn – lão già nói không có vẻ gì đáng buồn cả - nhưng hình như ngài đô thống làm gì có con?

-Không có con thật – Ostap lịch thiệp đáp lời.

-Anh bảo sao?....

-Không sao cả. Tôi là con riêng, ngoài hôn thú.

-Có phải con của bà Elena Bour không?

-Vâng, chính thế.

-Sức khỏe bà mẹ anh ra sao?

-Bà bô khuất núi lâu rồi.

-Chà, chà, buồn quá nhỉ!

Và lão già còn nhìn Ostap hồi lâu với mấy giọt nước mắt thông cảm, mặc dù vừa mới sáng nay lão còn nhìn thấy Elena Bour ngoài chợ, ở dãy hàng thịt.

-Rồi ai cũng chết thôi – lão nói – Dầu sao cũng xin anh cho biế, anh đến đây có việc gì, à mà tôi vẫn chưa rõ tên anh là…

-Voldemar – Ostap thông báo.

-Vladimia Ippolit? Hay lắm. Vậy tôi nghe anh đây, anh Vladimia Ippolit.

Lão già ngồi xuống bên chiếc bàn phủ vải sơn và nhìn vào tận mắt Ostap.

Ostap dùng những lời lẽ có lựa chọn để diễn tả nỗi buồn nhớ của mình đối với cha mẹ. Hắn rất lấy làm tiếc, rằng phải đường đột giữa lúc đêm hôm, đến thăm nhà của viên chủ nhiệm đáng kính và làm phiền ông ta. Nhưng hắn hy vọng rằng vị chủ nhiệm kho lưu trữ đáng kính sẽ tha thứ cho hắn, nếu biết tình cảm nào đã thôi thúc hắn tới đây. Đoạn hắn kết luận, với muôn vàn tình yêu của một đứa con trai:

-Tôi muốn tìm được một vật gì đó trong số đồ gỗ của cha tôi để mãi mãi tường nhớ người. Thưa bác, bác có biết số đồ gỗ của cha tôi được trao cho ai không?

-Phức tạp đây – lão già nghĩ một lát rồi trả lời – chỉ người nào khá giả mới đủ sức… Còn anh, xin lỗi, anh làm nghề gì?

-Nghề tự do. Tôi có một lò sát sinh và một ac-ten ướp lạnh ở Xamara.

Lão già ngờ vực nhìn những thành công quá sớm của gã con trai Ippolit, song lão không bác bỏ. “Một thằng hợm hĩnh”, lão nghĩ.

Lúc này Ostap cũng đã quan sát xong Korobeinikov, hắn nghĩ thầm: “Lão già là một tên đốn mạt”.

-Thế đó – Ostap nói.

-Thế đó – vị chủ nhiệm kho lưu trữ nói – khó đấy, nhưng có thể làm được…

-Cũng phải tốn kém chứ gì? Thủ trưởng lò sát sinh nói đỡ.

-Cũng chả nhiều nhặn gì….

-Lợi ích sát sườn, nói như Mô-pat-xăng. Sẽ có tiền công thích đáng.

-Vậy thì anh cho tôi bảy chục rúp.

-Sao nhiều thế, lúa mạch hồi này lên giá hay sao?

Lão già uốn éo, không phải chuyện đùa…

-Thôi được, bố già ạh. Tiền đổi lấy chứng từ. Bao giờ có thể lại nhà bác.

-Anh có mang theo tiền không?

Ostap lập tức vỗ đồm độp vào túi áo.

-Thế thì có thể làm ngay bây giờ - Korobeinikov trịnh trọng tuyên bố.

Lão châm nến và dẫn Ostap sang phòng bên cạnh. ở đây, ngoài chiếc giường rõ ra là nơi ngủ của chủ nhà, có một chiếc bàn viết bày la liệt các sổ sách kế toán, một cái tủ văn phòng dài có nhiều ngăn. Mỗi ngăn dán một chữ cái in A, B, C … cho đến Y. Trong ngăn đựng hàng bó phiếu, chứng từ được buộc dây cẩn thận.

-Ái chà chà! Cả một kho lưu trữ ngay tại nhà đây! – Ostap thốt lên thán phục.

-Đủ hết, - vị chủ nhiệm kho lưu trữ khiêm tốn trả lời – Anh biết không, tôi lấy về đề phòng bất trắc …. Sở công trình công cộng cần gì đến chúng đâu, còn tôi, chúng có thể giúp tôi lúc về già… Anh biết đấy, chúng ta cứ như đang sống trên núi lửa… Mọi chuyện đều có thể xảy ra… lúc ấy người ta mới quáng quàng bỏ đi tìm đồ đạc của mình. Tủ của tôi! Giường của tôi! Ghế của tôi đâu rồi? Thì ở đây chứ ở đâu nữa, thưa các vị! Ai giữ gìn, ai bảo quản hồ sơ giỏi thế? Korobeinikov chứ ai! Các vị sẽ cảm ơn lão già này và sẽ giúp đỡ… mà tôi thì chả cần nhiều – mỗi tấm phiếu xin mười đồng xu thôi, khổ chủ cũng cám ơn rối rít… Không thì cứ ra giữa đồng mà tìm gió (1). Thiếu tôi thì có thánh cũng chẳng lần ra.

Ostap thán phục nhìn lão già:

-Văn phòng hay thật! Cơ giới hóa toàn bộ! Bác đúng là anh hùng lao động!

Vị chủ nhiệm kho lưu trữ phổng mũi, bắt đầu kể cho khách nghe mọi chi tiết của sự nghiệp mà lão ưa thích. Lão giở những tập sách kiểm kê và phân phối dày cộp. Lão nói:

-Tất cả đều ở trong này. Toàn bộ thành phố Stargorot! Toàn bộ đồ gỗ! Tịch thu của ai, chia cho ai! Còn đây là cuốn sổ theo vần chữ cái, tấm gương của cuộc sống đấy! Anh muốn biết đồ đạc của ai? Của thương gia Angelop tiền bạc như nước ư? Xin mời! Hãy xem vần A. A, Ak, AM, Ah, Angelop đây rồi. Số mấy? Số 82742 đây. Bây giờ giở sổ kiểm kê ra. Trang 142, Angelop đâu? Angelop đây. Tịch thu đồ đạc nhà Angelop vào ngày 18 tháng 12 năm 1918. Một đàn dương cầm “Bekher” No 97012, một cái ghế đầu mềm mềm kèm theo đàn, hai bàn buy-ro, bốn tủ đựng quần áo (hai chiếc làm bằng gỗ hồng sắc), một tủ buýp-phê v.v… Thế chia cho ai? Thì giở sổ phân phối ra thôi. Vẫn số 82742. Tủ buýp-phê chi cho thị đội, ba cái tủ quần áo chuyển cho trường nội trú “Sơn ca”… Còn một tủ quần áo cấp cho ông trưởng ty lương thực. Thế đàn dương cầm? Đưa đến nhà dưỡng lão No2. Bây giờ nó vẫn kê ở đó.

“Sao mình không thấy cây đàn “Bekher” ở đàng ấy nhỉ?” – Ostap nghĩ thầm và nhớ lại vẻ mặt bẽn lẽn của Alkhen.

-Hoặc giả dụ muốn tìm đồ đạc của ông thị trưởng cũ, ngài Murin… giở vần M, sẽ thấy hết. Đã bảo cả thành phố mà. ở đây ghi đủ cả, nào dương cầm, nào bàn, nào ghế, nào tủ, nào đi-văng, nào đèn chùm, thậm chí cả bộ đồ ăn cũng có tuốt…

-Phải đúc tượng kỷ niệm cho bác mới được. Nhưng thôi, ta hãy vào việc của ta đi. Bác tìm vần V xem nào.

-Có ngay – Korobeinikov sẳn sàng hưởng ứng – đây là VM, VR, Verisski, Vorobjaninov: No2 48238. Ippolit Matveevich thân phụ của anh, cầu chúa phù hộ vong linh ông cụ, một con người hảo tâm… Đàn Piano “Bekher” No 54809, lọ cổ Tàu có nhãn hiệu – 4 cái, thảm trãi Obuysson – 8 tấm, thảm treo – 2 tấm, thảm Tekin – 2 tấm, thảm Horrosan – 1 tấm, gấu nhồi – 1 con, giường – 12 chiếc, bộ bàn ăn đủ cho sáu người, bàn ghế tiếp khách đủ cho 14 người, làm bằng gỗ hồ đào, theo kiểu Hambx…

-Chia cho ai? – Ostap nóng ruột hỏi.

-Có ngay. Gấu nhồi đưa cho đồn công an quận 2. Một tấm thảm treo đề tên “Chàng chăn cừu” – chuyển cho bảo tàng mỹ thuật, tấm thảm treo đề tên “Nàng chăn cừu” – phát cho câu lạc bộ đường thủy. Các tấm thảm còn lại chuyển lên bộ dân ủy ngoại thương. Giường ngủ chia cho hội thợ săn, bộ bàn ăn phát cho công ty chè Stargorot. Bộ bàn ghế tiếp khách thì phân phối lẻ. Chiếc bàn ghế tròn và một chiếc ghế cho nhà dưỡng lão No2, đi-văng chân cong – phòng nhà đất (hiện vẫn kê ở tiền sảnh, lớp da bị bọn khốn lột mất rồi), một chiếc ghế cho đồng chí Gritsasuep là thương binh trong cuộc hiến tranh đế quốc, phát theo đơn xin của đồng chí ấy, có chữ ký duyệt của trưởng phòng nhà đất là đồng chí Burkin. Mười cái ghế chuyển lên Matxcova, vào bảo tàng nghệ thuật đồ gỗ theo thư thông tri của Bộ dân ủy giáo dục… Mấy chiếc lọ cổ của Tàu thì…

-Xin khen ngợi bác – Ostap hoan hỉ - Hợp ý tôi lắm. Bây giờ được xem chứng từ thì tốt.

-Có ngay, có chứng từ đây. Số No 48238, chữ V.

Vị chủ nhiệm đi lại bên chiếc tủ, kiễng chân lấy bó phiếu cần lấy.

Đây, toàn bộ đồ gỗ của thân phụ anh ở trong này. Anh muốn có đủ mọi chứng từ à?

-Tôi lấy tất cả làm gì… Để kỷ niệm thời thơ ấu… chỉ cần bộ bàn ghế tiếp khách thôi… Tôi nhớ hồi bé tôi thường chơi đùa ở phòng khách, chạy trên tấm thảm Horosan, ngắm tấm thảm treo “Nàng chăng cừu”… Thời thơ âu hoàng kim mới tuyệt làm sao… Vậy là ta chỉ giới hạn ở đồ gỗ tiếp khách thôi, bố già ạ!

Vị chủ nhiệm bắt đầu trịnh trọng giở bó phiếu màu xanh, lấy ra các chứng từ cần thiết. Năm phiếu cả thảy. Một tờ ghi 10 chiếc ghế, hai tờ ghi mỗi cái một chiếc ghế, một tờ ghi cái bàn tròn và một tờ ghi tấm thảm treo “Nàng chăn cừu”.

-Anh có xem lại không? Tất cả đều đầy đủ. Cái nào, ở đâu, rất rõ ràng. Bên dưới ghi rõ địa chỉ và có chữ ký người nhận. Nghĩa là không ai chối cãi được. À, mà anh có muốn tìm bộ bàn ghế của bà tướng Popova không? Tuyệt lắm nhá. Cũng làm theo kiểu Hambx.

Nhưng Ostap chỉ yêu quý cha mẹ mình thôi, hắn chộp lấy năm tờ phiếu, nhét vào tận đáy túi áo trong và từ chối việc tìm kiếm bộ bàn ghế của bà tướng Popova.

-Tôi có cần viết giấy biên nhận tiền cho anh không? – Vị chủ nhiệm kho lưu trữ uốn thằng lưng hỏi.

-Có chứ bác – Ostap lịch sự đáp – Xin bác viết thật rõ cho. Nhất trí!

Họ trở lại phòng thứ nhất. Korobeinikov nắn nót viết giấy biên nhận tiền và mỉm cười trao cho khách. Vị giám đốc kỹ thuật cung kính giơ hai ngón tay phải nhận tờ giấy và cất nó vào đúng chiếc túi đang đựng năm tấm phiếu quý giá!

-Thôi, tạm biệt – Ostap nheo nheo mắt – Hình như tôi đã làm phiền bác hơi lâu. Không dám quấy quả thêm. Nào, xin bắt tay người nguyên đổng lý văn phòng.

Vị chủ nhiệm kho lưu trữ sững sốt, uể oải bắt bàn tay của khách.

-Tạm biệt – Ostap nhắc lại và đi ra cửa. Korobeinikov chả hiểu gì nữa. Lão thậm chí ngó xuống bàn xem ông khách có đặt tiền ở đó không, nhưng làm gì có xu nào. Lúc ấy, lão mới hỏi khẽ:

-Thế còn tiền?

-Tiền gì cơ? – Ostap vừa hỏi vừa mở cửa – Hình như bác vừa hỏi món tiền gì thì phải?

-Chứ sao! Tiền công tìm đồ gỗ! Tiền đổi phiếu!

-Bác ơi, xin thề trước vong linh thân phụ quá cố của tôi, vì mừng quá, tôi đã quên rút tiền ở ngân hàng.

Lão già giật thót người, giơ vội bàn tay khẳng khiu của mình ra đàng trước, định giữ khách lại.

-Khẽ chứ, đồ ngốc – Ostap hăm dọa – Người ta đã nói tiếng Nga với lão, rằng sáng mai trả là sáng mai trả. Thôi, tạm biệt! Nhớ viết thư cho mình nhé…

Cửa đóng sập ngay lại. Korobeinikov vội mở cửa và chạy ra đường, nhưng Ostap đã mất hút. Hắn rảo bước qua cầu một cái đầu máy xe lửa chạy ngang qua rọi ánh lửa vào người hắn và xì ra một đám khói.

-Băng đã trôi rồi! – Ostap thét to với người thợ lái đầu máy. Băng đã trôi rồi, thưa các ngài bồi thẩm chí tôn chí kính!

Người thợ lái đầu máy không nghe rõ, chỉ vẫy vẫy tay và tăng ga mạnh hơn cho chiếc đầu máy vọt đi.

Korobeinikov đứng thêm hai phút ngoài gió lạnh, chửi mấy câu thậm tệ rồi quay vào nhà. Một nỗi cay đắng ghê gớm trào lên. Lão đứng sững giữa phòng và giận dữ đá liền mấy cái vào chiếc bàn. Cái gạt tàn thuốc lá hình chiếc giày có dòng chữ đỏ “tam giác” nẩy lên cành cạch còn chiếc ly thì cụng mấy lần vào chiếc bình đựng nước.

Chưa bao giờ Varfolmei Korobeinikov bị lừa đau đớn như thế. Lão có thể lừa ai cũng được, đàng này lão lại bị mắc bẫy, một cái bẫy đơn giản đến cùng cực. Thành thử lão cứ đứng đực người ra bên chiếc bàn ăn mà hậm hực.

Ở khu vực Gusisa này người ta chỉ đến gặp lão trong trường hợp vạn bất đắc dĩ. Lão cầm đồ và cho vay tiền với tỉ lệ lãi cắt cổ. Lão làm việc ấy đã mấy năm nay và chưa hề thua thiệt lần nào vậy mà tối nay lão mất trắng một dịch vụ hứa hẹn bao lời lãi cho tuổi già sau này của lão.

- Hắn đùa ư?! Lão hét to khi nhớ lại năm tờ phiếu mất trắng – bây giờ thì phải xì tiền trước đã. Tự tay mình đem dâng bộ bàn ghế tiếp khách có ngu không chứ! Riêng tấm thảm treo “Nàng chăn cừu” đã vô giá rồi! Dệt bằng tay kia mà….

Cái dây chuông “Hãy giật chuông” đã bị một bàn tay rụt rè của ai đó lắc lắc từ lâu, và Korobeinikov chưa kịp nhớ ra là cửa vẫn bỏ ngỏ, thì phòng ngoài vang lên một tiếng “Rầm” và có tiếng người gọi lẫn trong dãy tủ kê la liệt:

-Vào lối nào đây ạ?

Korobeinikov bước ra, kéo chiếc áo bành tô của ai đó (trong tối chỉ sờ thấy nham nháp) dẫn vào phòng ăn: thì ra là cha Fedor,

-Xin bác thứ lỗi – cha Fedor nói.

Sau mười phút đôi bên chủ khách trao đổi qua lại những câu nói nữa chừng và khôn khéo, mới rõ được rằng quả thực công dân Korobeinikov đang có những tài liệu nhất định về món đồ gỗ của Ippolit Matveevich Vorobjaninov, còn cha Fedor thì sẳn sàng trả tiền mua các tài liệu ấy. Ngoài ra, vị chủ nhiệm kho lưu trữ rất chi hài lòng về chuyện khách chính là em ruột của ngài đô thống xưa kia và ấp ủ nguyện vọng tha thiết được lưu giữ kỷ niệm về ông anh bằng cách tìm kiếm bộ bàn ghế tiếp khách làm từ gỗ hồ đào. Thời niên thiếu của hai anh em Vorobjaninov quyện chặt với bộ bàn ghế ấy.

Korobeinikov đòi một trăm rúp. Khách thì đánh giá kỷ niệm về ông anh trai thấp hơn nhiều, khoảng vài ba chục rúp là cùng. Họ thỏa thuận với nhau ở cái giá năm chục rúp.

-Xin ông cho tiền trước – vị chủ nhiệm tuyên bố - cái tật của tôi như thế.

-Tôi đưa tiền vàng, theo giá một ăn mười được chứ? Cha Fedor vội lần mép áo, nói.

-Tôi chỉ nhận nếu tính đổi đúng giá. Một đồng vàng ăn chín rúp rưỡi. Giá chiều nay đấy.

Cha Fedor lấy ra năm đồng vàng, thêm hai đồng bạc và đưa dúm tiền ấy cho vị chủ nhiệm kho lưu trữ. Korobeinikov đếm đi đếm lại hai lần, nắm chặt trong tay, đề nghị khách chờ một lát để lão đi lấy phiếu. Trong văn phòng bí mật của mình, lão chẳng nghĩ ngợi gì lâu, giở ngay cuối vần chữ cái – tấm gương của cuộc sống, lấy vần P, nhanh chóng tìm ra số hiệu, rồi lục tìm bó phiếu của bà tướng Popora. Lão rút ra một tờ phiếu phân phối có ghi chia cho đồng chí Brun, địa chỉ: 34, phố Vinograt, mười hai chiếc ghế hồ đào kiểu Hambx. Ngạc nhiên về sự lãng trí rất tháo vát của mình, vị chủ nhiệm kho lưu trữ mỉm cười, đem tờ phiếu sang phòng bên cho khách.

-Tất cả đều ở cùng một chỗ ư? Người mua reo lên.

-Tất, tất cả đều ở một chỗ. Bộ bàn ghế này hết ý. Không chê vào đâu được. Mà khen với ông cũng bằng thừa! Ông còn lạ gì nó!

Cha Fedor sung sướng lắc lắc bàn tay vị chủ nhiệm kho lưu trữ hồi lâu, rồi sau không biết bao nhiêu lần vấp vào dãy tủ la liệt ở phòng ngoài, cha chạy thẳng vào bóng đêm.

Korobeinikov thì cứ đứng cười theo vị khách hàng đần độn. Vào đặt những đồng tiền vàng thành một dãy trên bàn và ngắm nghía chúng bằng cặp mắt ngái ngủ.

“Tại sao chúng nó lại đổ đi tìm đồ gỗ nhà Ippolit Vorobjaninov nhỉ?” – lão nghĩ thầm – Thật là mấy thằng mất trí.

Lão với quần áo, cầu kinh cho qua lệ, nằm xuống giường có chân chật hẹp và thiếp đi mơ màng.

(1) Tương đương câu tục ngữ “Đáy biển mò kim”.


Hết chương 11, xem tiếp chương 12 “MƠ ƯỚC CỦA NHÀ THƠ


NGƯỜI ĐÀN BÀ HĂNG HÁI”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 12​
ƯỚC MƠ CỦA NHÀ THƠ
NGƯỜI ĐÀN BÀ HĂNG HÁI


Cái giá rét của ban đêm đã phải trốn biệt. Trời trở nên ấp ấp đến mức những người ra đường sớm thấy nhức buốc cả chân. Bầy chim sẽ ríu rít cãi nhau. Ngay đến con gà mái từ trong bếp chạy ra sân khách sạn cũng cảm thấy dồi dào sức lực, thử gáy to hơn một chút. Vài đám mây mỏng manh trên trời. Thùng rác bốc lên mùi cây đông thảo và mùi súp peivano. Gió lùa qua khe cửa sổ, chú mèo nằm ườn trên mái nhà nheo nheo mắt nhìn xuống sân, e ngại cho anh chàng Alexsandr trực lầu đang bưng giỏ quần áo và chạy dưới đó.

Các hành lang của ô-ten “Sorbonna” nhộn nhịp hẳn lên. Từ các huyện, nhiều phái đoàn về đây dự lễ khánh thành đường xe điện. Cả một tốp đông được đổ xuống trước cửa ô-ten “Sorbonna”.

Mặt trời tỏa ánh nắng gay gắt. Cửa sắt các nhà hàng được kéo lên rầm rầm. Cán bộ nhân viên đi làm, nếu mặc những chiếc áo bông, thì giờ đây nực người lên vì gánh nặng của mùa xuân.

Ở phố Kaoperative, một chiếc xe vận tải chở quá nặng của công trường Melsiroi bị gãy nhíp, và Viktor Mikhailovich Polesov kịp thời có mặt ở nơi xảy ra sự cố đang đưa ra những lời khuyên bảo.

Trong phòng khách sạn được bày biện xa xỉ nhưng thực tế (hai chiếc giường và một cái Tap-đo-nuy), có tiếng thở và tiếng phun phì phì như ngựa: Ippolit Matveevich đang vui vẻ rửa mặt và thông mũi. Vua mánh thì nằm trên giường đang xem các vết vẹt đế giày. Hắn nói:

- Này, yêu cầu ông thanh toán dứt điểm khoản nợ ngày hôm qua cho.

Ippolit Matveevich ló mặt ra khỏi khăn tay và nhìn Ostap bằng cặp mắt lồi không mang kính.

- Cái gì mà ông nhìn tôi như lính thấy rệp thế? Ông ngạc nhiên về cái gì? Về khoản nợ à? Phải rồi! Ông nợ tiền tôi. Hôm qua tôi quên nói ông biết rằng theo sự ủy nhiệm của ông; tôi đã trả bảy mươi rúp để mua năm tờ phiếu. Có giấy biên nhận kèm theo. Xin ông quẳng cho tôi ba mươi lăm rúp. Tôi hy vọng hai bên ký kết hợp đồng cùng tham gia trên cơ sở bình đẳng chứ?

Ippolit đeo kính kẹp mũi, đọc tờ giấy biên nhận và nhăn nhó giao tiền. Nhưng thậm chí điều đó cũng không làm ông mất hứng. Tài sản đã nắm trong tay đây rồi. Hạt bụi ba mươi lăm rúp biến mất ngay trong ánh hào quang của quả núi kim cương.

Ippolit mỉm cười rạng rỡ, bước ra đi dạo ngoài hành lang. Kế hoạch của một cuộc sống mới, được xây dựng trên nền đá quý, đã an ủi ông. “Còn lão cố đạo? – Ông chửi thầm – Thật ngu như chó. Nó sẽ không bao giờ nhìn thấy những cái ghế ấy”

Đến cuối hành lang, Ippolit quay lộn lại. Cái cửa trắng, nứt nẻ ở phòng No13 mở ra, và cha Fedor mặc chiếc áo va-rơi xanh, có sợi dây màu đen rách tua tủa thắt ngang lưng, tiến thẳng về phía ông. Khuôn mặt đôn hậu của cha hân hoan sung sướng. Cha cũng ra hành lang để dạo mát. Hai đối thủ chạm mặt nhau mấy lần, đôi bên đắc thắng nhìn nhau rồi lại bước tiếp. Niềm hứng khởi dâng lên trong ngực Ippolit. Cha Fedor cũng có cảm giác hệt như vậy. Cả hai đều thấy thương hại cho đối phương thất thế. Cuối cùng, ở lần chạm mặt thứ năm, Ippolit không dừng được nữa.

- Chào cha – ông nói giọng ngọt ơi là ngọt.

Cha Fedor tập trung toàn bộ sự châm biếm cay độc mà chúng cho phép cha sử dụng, đáp lời:

- Chào ông Ippolit.

Hai đối thủ lại xa nhau. Lần gặp sau, Ippolit buông một câu:

- Bữa trước tôi có làm cho cha bị chấn thương không đấy?

- Không, có sao đâu, tôi rất vui lòng gặp mặt ông hôm ấy.

Rồi cả hai lại đi về hai bên đầu hành lang khác nhau. Bộ mặt của cha Fedor bắt đầu làm cho Ippolit khó chịu.

- Cha không ở nhà làm lễ thánh nữa ư? - Ông hỏi khi đôi bên gặp lại.

- Làm lễ thánh sao được, khi mà con chiên bỏ đi lung tung sang các thành phố khác để tìm báu vật.

- Xin cha lưu ý: báu vật của họ! của họ!

- Báu vật của ai không biết, chỉ biết là họ bỏ đi tìm.

Ippolit muốn nói một câu gớm ghiếc nào đó và đã há miệng ra, nhưng không nghĩ được câu gì, đành bực bội trở về phòng của mình. Một phút sau, từ đó bước ra gã con trai của vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ, tức Ostap Bender, mình mặc ghi-lê xanh, dây giày lòng thòng dưới chân nên cứ bị chân giẫm phải. Ostap tiến về phía cha Fedor. Những bông hồng trên má cha Fedor héo hẳn đi và biến thành màu tro.

- Ông mua đồ cũ phải không? – Ostap hỏi, giọng dọa nạt – Ghế cũ? Súc vật chết? Hay xi đánh giày?

- Anh muốn gì – cha Fedor hỏi nhỏ.

- Tôi muốn bán chiếc quần thủng đít cho ông.

Vị cố đạo lạnh xương sống lùi dần.

- Sao ông cứ câm lặng như đức giáo chủ trong bữa tiệc chiêu đãi thế?

Cha Fedor lui dần về phòng ở của mình.

- Mua lại đồ cũ, ăn cắp đồ mới đa-đa-ây! – Ostap dài giọng với theo.

Cha Fedor rụt đầu rụt cổ dừng chân ở cửa phòng mình. Ostap tiếp tục công kích:

- Thưa đức chăn chiên chí kính, ngài mua chiếc quần thủng đít của tôi chứ ạ? Tôi còn có đôi tay áo ghi-lê và đôi tai của con lừa chết nữa kia. Bán luôn cả bộ thì lấy giá rẻ hơn. Mà lại có ngay chứ không cất giấu ở trong vỏ ruột ghế, khỏi tốn công đi tìm! Xong chưa nào?!

Cha Fedor tót vào phòng và đóng cửa lại.

Ostap hài lòng đi về phòng mình, chân này giẫm lên dây giày chân kia. Khi cái thân xác vạm vỡ của hắn đã ở khoảng cách khá xa, cha Fedor thò đầu rất nhanh ra ngoài cửa và rít lên vì cơn giận bị kềm chế quá lâu:

- Mày là đồ khốn nạn thì có!

- Cái gì? – Ostap chạy bổ trở lại, nhưng cửa đã đóng sập và ổ khóa kêu tách một cái.

Ostap cúi xuống ổ khóa, cong bàn tay đưa lên miệng làm loa và nói rõ từng tiếng:

- Thuốc phiện đối với nhân dân. (1)

Không thấy bên trong trả lời.

- Đức cha ơi, người là quân đốn mạt! – Ostap gào to.

Ngay lúc ấy từ trong ổ khóa, một cây bút chì phóng ra nhưng bị mắc kẹt ở đó; cha Fedor định dùng đầu nhọn của cây bút để hạ thủ đối phương. Ostap tránh kịp và túm lấy một đầu cây bút. Hai kẻ thù bị cánh cửa ngăn cách, cố kéo cây bút chì về phía mình. Thắng lợi thuộc về tuổi trẻ, và cây bút từ từ chui ra bên ngoài như một cái dằm miễn cưỡng bứt khỏi da thịt. Ostap trở về phòng với món chiến lợi phẩm đó. Hai thành viên hợp đồng được mẻ cười thích thú.

- Kẻ thù đã phải rút lui, rút lụi, rút lui!... Ostap nói như hát.

Hắn dùng dao nhíp, khắc một chữ tục lên thân cây bút, chạy ra hành lang nhét cây bút vào phòng qua lỗ khóa, rồi quay luôn về phòng mình.

Hai ông bạn mang năm tờ phiếu ra chỗ sáng và bắt đầu nghiên cứu thật kỹ, Ippolit nói.

- Tôi mua tấm thảm treo “Nàng chăn cừu” này tại một hiệu đồ cổ ở Matxcova đây.

- Vứt mẹ nó đi! – Ostap xé vụn tờ phiếu.

- Còn cái bàn tròn thì hình như…

- Đưa tờ phiếu cái bàn tròn cho tôi. Vứt cha nó đi cho khỏi bận mắt!

Còn hai tờ phiếu phân phối, một tờ ghi 10 chiếc ghế chuyển lên bảo tàng nghệ thuật đồ gỗ ở Matxcova, tờ kia ghi cấp một chiếc ghế cho đồng chí Gritsasuev ở Stargorot, phố Plekhanov, số nhà 15.

- Chuẩn bị tiền đi – Ostap nói – có lẽ phải đi Matxcova.

- Nhưng ở thành phố này cũng có một chiếc cơ mà.

- Xác xuất một trên mười. Toán học thuần túy. Biết đâu công dân Gritsasuev lại chẳng đem cái ghế đi nhóm bếp rồi.

- Anh đừng đùa kiểu ấy.

- Không sao, không sao, đồng chí thủ lĩnh công đoàn tự do Kondrat Karlovich Mikhelson ạ, chúng ta sẽ tìm thấy thôi! Sự nghiệp này thiêng liêng lắm! Chúng ta sẽ có tất len để đi và kem Margo để chén.

- Không hiểu sao tôi có cảm giác rằng kho báu phải để trong chính chiếc ghế ấy, Ippolit nhận định.

- Ái chà chà! Ông có cảm giác à? Ông còn có cảm giác gì nữa nào? Không ư? Thôi được. Ta sẽ làm việc theo kiểu mac-xít, thực tế hơn. Hãy trả bầu trời cho loài chim, còn ta thì quay về với những chiếc ghế. Tôi đang nóng lòng muốn gặp đồng chí thương binh của cuộc chiến tranh đế quốc, công dân Gritsasuev, phố Plekhanov, nhà số 15. Ta đi ngay thôi, ông Mikhelson! Kế hoạch cụ thể sẽ vừa đi vừa bàn.

Ngang qua cửa phòng cha Fedor, đứa con trai để bụng thù vặt của vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ còn đá vào cửa một cái thật mạnh. Từ bên trong vọng ra tiếng lẩm bẩm yếu ớt của đối thủ bị đầu độc.

- Chỉ ngại nó theo gót chúng mình! Ippolit nói.

- Sau cuộc gặp gỡ giữa các ngài bộ trưởng trên thuyền buồm vừa rồi thì khó có sự tiếp xúc nào nữa. Nó sợ vãi đái ra rồi.

- Gần tối chúng mới quay về. Ippolit đăm chiêu. Ostap thì mặt mày rạng rỡ. Hắn diện đôi giày mới lắp đế cao su, đi đôi tất kẻ sọc kiểu bàn cờ, ô xanh cạnh ô đen, đầu đội chiếc mũ cát-két màu kem sữa, cổ quàng một chiếc khăn Rumani.

Ippolit phân vân khi nhớ lại lúc đến nhà góa phụ Gritsasueva:

- Ghế thì đúng nó rồi đấy. Nhưng làm cách nào bây giờ? Phải mua àh.

- Chứ sao, đấy là chưa nói đến khoản chi phí hoàn toàn phi sản xuất đó, Ostap trả lời – làm không khéo, dễ gây lời ong tiếng ve lắm.

- Vậy anh bảo phải làm thế nào?

Ostap sung sướng ngắm cái đế giày mới.

- Siêu mô-đéc đấy, - hắn nói – làm thế nào à? Khỏi lo, ông chủ tịch ơi, tôi nhận làm vụ này cho. Không một chiếc ghế nào có thể đứng vững trước đôi giày siêu mô-đéc này.

- Anh biết không, - Ippolit sôi nổi hẳn lên, - lúc anh nói chuyện với bà Gritsasueva về nạn lụt lội, tôi ngồi thử xuống cái ghế của chúng ta và, thú thật, tôi cảm thấy có cái gì cưng cứng ở dưới. Lạy chúa, đúng nó rồi…. lạy chúa, tôi cảm thấy rõ ràng mà,…

- Chớ có xúc động quá, ông Mikhelson.

- Đêm nay ta phải đánh cắp nó! Phải đánh cắp nó!

- Một vị đô thống quý tộc mà hành động nhỏ mọn quá. Vả lại ông nắm được kỹ thuật đánh cắp chưa nào? Trong va li của ông có chùm móc sắt mở các loại ổ khóa chứ? Xin ông vứt bỏ cái ý nghĩ ấy đi cho tôi nhờ! Lấy cắp đồ của một góa phụ nghèo! Sang trọng chưa?!

Ippolit Matveevich sực tỉnh.

- Thì tôi chỉ muốn công việc mau hoàn tất, ông nói như van vỉ.

- Chỉ có lũ mèo mới đẻ nhanh thôi! – Ostap lên giọng dạy đời. – Tôi sẽ cưới mụ ta.

- Mụ nào?

- Madam Gritsasueva.

- Để làm gì?

- Để khai phá chiếc ghế mà không gây chuyện om sòm.

- Nhưng như thế là anh gắn bó suốt đời với mụ ta hay sao?

- Vì lợi ích của bản hợp đồng này, phỏng còn tiếc nuối cái gì!

- Trời ơi, gắn bó suốt đời! – Ippolit rên rỉ.

Ippolit vung tay cực kỳ kinh ngạc. Cái miệng trên bộ mặt không râu ria của ông há ra, để lộ những chiếc rằng màu xanh không được chải kể từ hôm rời thị trấn N.

- Gắn bó suốt đời! – Ippolit thì thầm! – Đây là một sự hy sinh lớn.

- Cuộc đời! – Hy sinh! – Ostap nói. – Ong thì biết gì về cuộc đời và sự hy sinh? Ông tưởng rằng , nếu ông bị đuổi ra khỏi biệt thự, thì ông biết rõ cuộc đời ư? Và nếu người ta đưa về bảo tàng những cái lọ tàu giả, thì đó là sự hy sinh chăng? Cuộc đời, thưa các vị bồi thẩm đáng kính, là một mớ phức tạp, nhưng thưa các vị bồi thẩm đáng kính, cái món phức tạp ấy lại dễ mở toang ra như ta mở tủ. Chỉ cần biết cách mở thôi. Kẻ nào không mở được, thì kẻ đó chết. Ông đã nghe chuyện ngài kỵ sĩ quý tộc đi làm thầy tu khổ hạnh chưa?

Ippolit chưa nghe chuyện ấy bao giờ.

- Ông chưa nghe tên Bulasov bao giờ sao? Người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc ấy mà? Vậy để tôi kể cho mà nghe.

Đoạn Ostap Bender kể cho Ippolit Matveevich nghe câu chuyện mà đoạn mở đầu kỳ lạ của nó làm cả thành phố Pê-ter-burg xúc động, còn đoạn kết còn kỳ thú hơn của nó thì bị lẫn đi, không được ai để ý trong thời gian mấy năm vừa qua.


CHUYỆN KỴ SĨ QUÝ TỘC



ĐI LÀM THẦY TU KHỔ HẠNH


Đúng như lời kể của Ostap Bender, ngài kỵ sĩ quý tộc tuấn kiệt, bá tước Aleksei Bularov, quả là người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc. Tên tuổi của anh chàng kỵ sĩ và tay ăn chơi khét tiếng ấy không ngớt được kể đi kể lại từ miệng những người sống trong các lâu đài tuyệt mỹ ở phố bờ sông Anglish và trên các cột báo thời ấy. Trên các tạp chí minh họa thường xuất hiện ảnh chụp chàng kỵ sĩ điển trai mặc chiếc áo blu-đông bằng lông cừu, có hai món tóc mai vắt vẻo và cái mũi ngắn đắc thắng.

Bá tước Bularov nổi tiếng là kẻ tham gia nhiều vụ đấu súng bí mật dẫn đến kết cục bi thảm, vô số khối tình công khai với những madam kiều diễm nhất, khó tính nhất của giới thượng lưu, hàng loạt trò nghịch ngợm điên rồ quấy phá những nhân vật đáng kính trong xã hội, và là tác giả của những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng, bao giờ cũng chấm dứt bằng trò đập phá chai ly.

Bá tước đẹp trai, trẻ trung, giàu sang, may mắn trong tình yêu, may mắn trong cờ bạc và trong việc thừa kế tài sản. Những người ruột thịt của bá tước bay lên thiên đàng đến nỗi tư sản của bá tước tăng lên vùn vụt tuy đã chất cao như núi.

Bá tước là người hết sức táo tợn, quả cảm. Chàng đã giúp Hoàng đế Abisini trong cuộc chiến tranh của ông ta với Italia. Chàng ngồi dưới những ngôi sao sáng chói của sứ Abisini, mình khoác chiếc áo Ả-Rập, mắt nhìn chiếc bản đồ địa hình trãi rộng. Ánh đuốc bập bùng tạo thành những vệt đen di động chập chờn bên hai món tóc mai cong vút của chàng. Ngồi bên chân chàng là một người bạn mới – chú bé Vaska người Abisini.

Sau khi tiêu diệt quân đội của vua Italia, bá tước trở về Pê-ter-burg cùng với chú bé Vaska. Pê-ter-burg chào đón người anh hùng bằng hoa thơm và rượu sâm banh. Bá tước lại chìm đắm vào biển lạc thú vô tư, theo cách nói của giới quý phái thời ấy. Người ta lại tiếp tục bàn tán về chàng với thái độ thán phục gấp đôi, các thiếu phụ thi nhau giành giật chàng, cánh đàn ông ghen tị với chàng. Chiếc xe ngựa của bá tước thường phóng như bay trên đường phố Million, và đứng trên bậc xe bao giờ cũng là chú bé Abisini mà nước da đen nhánh và thân hình mảnh mai của chú luôn luôn làm sửng sốt khách bộ hành.

Rồi đột nhiên tất cả chấm dứt. Bá tước Bularov biến mất tăm. Nữ công tước Belorussko – Baltiskaia, tình nhân cuối cùng của chàng, trở nên rầu rĩ, không gì an ủi được. Sự kiện bá tước biến mất gây ra bao lời bàn tán. Báo chí đầy ắp những lời phỏng đoán. Các quan chức cảnh sát lúng túng, chạy nháo cả lên. Nhưng vô ích, không sao lần ra dấu vết ngài bá tước.

Khi chuyện om sòm đã lắng hẳn, thì có một bức thư từ hoang mạc Averkiev gửi về giải thích mọi sự. Chàng bá tước tuấn kiện, người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc. Valtasar của thế kỷ XIX, đã nhập dòng tu khổ hạnh. Người ta truyền cho nhau những chi tiết rùng rợn. Người ta bảo ngài bá tước – thầy tu lê chiếc xiềng nặng bốn, năm chục ký, rằng một trang công tử quen dùng các món ăn Pháp tinh tế như chàng, nay chỉ sống bằng vỏ khoai tây. Lại hàng loạt phỏng đoán được tung ra. Người ta bảo bá tước nằm mê thấy bà mẹ quá cố hiện về.

Các thiếu phụ khóc than. Hàng dãy xe ngựa sang trọng đậu trước nhà nữ công tước Belorussko – Baltiskaia. Nữ công tước cùng với chồng tiếp khách khứa đến chia buồn. Lại có những tin đồn mới. Người ta chờ bá tước quay trở về. Người ta bảo đấy chỉ là tình trạng mất trí tạm thời do tôn giáo gây ra. Người thì bảo bá tước bỏ chạy để trốn nợ. Người thì bảo tất cả chỉ xuất phát từ một mối tình bất hạnh.

Thực ra, bá tước kỵ sĩ đi tu là để nhận thức cuộc sống. Chàng không quay trở lại. Dần dần người ta cũng quên chàng. Nữ công tước Belorussko – Baltiskaia đã kết bạn với một ca sĩ Italia, còn chú bé Vaska thì trở về tổ quốc Abisini của chú.

Tại tu viện, bá tước Aleksei Bularov đổi tên thành Eypl, đang dốc lòng dốc sức lập những công tích vĩ đại. Quả là chàng có đeo xiềng, nhưng chàng thấy như vậy vẫn chưa đủ để hiểu cuộc sống. Chàng liền phát minh cho mình một cái mũ tu sĩ đặc biệt, có lưỡi trai hẳn hoi, che gần kín mặt mà một cái áo cà sa cứ quấn vào chân mỗi lúc bước đi. Chàng được tu viện trưởng cho phép ăn vận như vậy. Sau đó, vốn dòng kiêu hãnh, chàng lánh vào một khu rừng và bắt đầu sống trong một chiếc quan tài gỗ sồi.

Công tích của tu sĩ Eypl làm cho cả tu viện bái phục. Chàng chỉ ăn những miếng bánh khô mà cứ ba tháng người ta mới tiếp tế thêm một lần.

Hai mươi năm cứ thế trôi qua. Eypl cho rằng cuộc sống của mình rất chi sáng suốt, đúng đắn, và duy nhất đúng đắn. Cuộc sống của ông trở nên thanh thản lạ thường, và các ý nghĩ của ông cứ trong vắt như pha lê. Ông đã nhận thức rõ cuộc sống và hiểu rằng không thể sống khác được.

Một hôm, ông ngạc nhiên nhận ra rằng ở cái chỗ mà suốt hai chục năm nay ông vẫn quen lấy những cái bánh khô, bây giờ chẳng có gì hết. Bốn ngày liền ông bấm bụng nhịn đói. Sang ngày thứ năm có một cụ gìa ăn mặc rách rưới mà ông không hề quen mặt, đến gặp ông và báo tin rằng những người Bôn-sê-vích đã đuổi các tu sĩ ra khỏi viện và lấy đó làm trụ sở nông trường quốc doanh. Sau khi để lại cho ông một ít bánh khô, lão già ra về, nước mắt nước mũi ròng ròng. Tu sĩ Eypl chưa hiểu lão già. Với những ý tưởng trong sáng và bình lặng, ông cứ nằm trong chiếc quan tài mà vui sướng nhận thức cuộc sống. Lão già nông dân thỉnh thoảng lại tiếp tế bánh khô cho ông.

Lại mấy năm nữa cứ thế trôi qua không làm bất cứ ai bận tâm.

Một hôm cửa lều mở toang ra, và mấy người khom lưng bước vào. Họ đến bên chiếc quan tài và lặng lẽ nhìn ông tu sĩ già. Đấy là nhưng người vạm vỡ, đi ủng có đóng cá, mặc áo galife và đeo những khẩu mô-de dắt trong bao gỗ được đánh vec-ni láng bóng. Tu sĩ nằm trong quan tài, đặt tay lên ngực, nhìn tốp người mới đến bằng cặp mắt sáng quắc. Bộ râu trắng dài phủ kín cả nửa chiếc quan tài. Tốp người lạ mặt nhún vai, lặng lẽ bỏ đi và còn cẩn thận khép lại cửa lều.

Thời gian trôi qua. Cuộc sống đã mở ra trước ông tu sĩ toàn bộ sự ngọt ngào của nó. Vào một đêm nọ nối tiếp cái ngày mà ông tu sĩ hiểu đến tột cùng rằng mọi thứ trong ý thức của mình đều sáng sủa, ông bỗng giật mình tỉnh giấc. Ông ngạc nhiên lắm. Có bao giờ ông thức giấc vào ban đêm đâu. Trong lúc đang nghĩ xem vì sao mình tỉnh giấc, ông lại thiếp đi, rồi lại tỉnh ra ngay vì cảm thấy cực kỳ ngứa ngáy ở sau lưng. Nhận thức rõ nguyên nhân sự ngứa ngáy ấy, ông cố thiếp đi, nhưng không được. Có cái gì đó cản trở ông. Ông thức luôn đến sáng. Đêm hôm sau lại bị con gì đó làm ông tỉnh giấc. Ông trằn trọc đến sáng, miệng khẽ rên và không để ý rằng hai tay ông phải gãi gãi nhè nhẹ. Ban ngày ông tình cờ nhòm kỹ chiếc quan tài. Bấy giờ ông đã hiểu tất cả: bốn góc chiếc giường cáu bẩn của ông lúc nhúc toàn rệp là rệp. Ông tu sĩ rùng mình ghê tởm.

Ngày hôm đó, lão già nông dân đem bánh khô đến tiếp tế. Và vị tu sĩ im lặng đã hai mươi lăm năm, nay phải lên tiếng. Ông xin người trần đem lại cho ông một ít dầu hôi. Nghe thấy tiếng nói của vị đạo sĩ câm lặng vĩ đại, lão già nông dân giật bắn cả người. Tuy nhiên lão vẫn mang chai dầu tới, tuy phải giấu giếm ngượng nghịu. Lão già vừa ra về, vị đạo sĩ run run tay rót dầu vào mọi kẽ ván của chiếc quan tài. Lần đầu tiên sau ba ngày qua, Eypl ngủ thiếp đi yên lành, không bị cái gì quấy phá. Những ngày sau ông cũng rót dầu vào quan tài. Nhưng hai tháng sau thì ông hiểu rằng không thể dùng dầu hôi để tống cổ lũ rệp đi. Đêm đêm, ông cứ phải trở mình luôn xoành xoạch và cầu kinh rất to, nhưng các bài kinh cầu nguyện còn kém tác dụng hơn cả dầu hôi.

Nữa năm trôi qua trong những sự hành hạ khó nói nên lời, trước khi vị đạo sĩ lại phải xin xỏ lão già một lần nữa. Yêu cầu thứ hai làm cho lão già sửng sốt hơn nữa: vị đạo sĩ nhờ ông ra thành phố mua loại thuốc bột “Aragat”chống rệp. Nhưng cả thuốc “Aragat” cũng vô hiệu. Rệp sinh sản nhanh lạ thường. Tấm thân cường tráng của đạo sĩ mà hai mươi lăm năm nhịn đói không thể quật ngã, nay sút cân trông thấy. Một cuộc sống tối tăm, tuyệt vọng bắt đầu. Đạo sĩ Eypl thấy chiếc quan tài trở nên gớm ghiếc và bất tiện. Ban đêm, theo lời khuyên của lão nông dân, ông đốt rệp bằng đóm. Rệp chết la liệt, nhưng vẫn không chịu đầu hàng.

Sau đó phải dùng đến loại thuốc cuối cùng là các sản phẩm hóa chất đặc biệt. Đó là một chất lỏng màu da cam có mùi đào thối nhãn hiệu “Klopin”. Nhưng cũng chẳng kết quả gì. Tình hình càng xấu đi. Hai năm sau kề từ lúc bắt đầu cuộc vật lộn vĩ đại, đạo sĩ tình cờ nhận ra rằng ông đã hoàn toàn ngừng suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì suốt ngày đêm chỉ chuyên lo giết rệp.

Bấy giờ ông mới hiểu rằng mình đã lầm. Cuộc sống vẫn tăm tối và bí ẩn như hai mươi lăm năm về trước. Né tránh những nỗi lo toan trần tục đâu có được. Không thể nào xác thịt ở dưới đất, linh hồn lại bay bổng trên trời.

Thế là ông già đứng dậy, lanh lẹn chui ra khỏi lều, ông đứng giữa một cánh rừng xanh âm u. Đang là đầu mùa thu khô hanh. Ngay cạnh lều, từ lòng đất chồi lên cơ man nào là những cây nấm to tròn. Một con chim lạ đậu trên cành cây đang hót líu lo. Văng vẳng tiếng một đoàn tàu chạy qua. Đất rung rung. Cuộc sống đẹp quá. Ông già bước thẳng về phía trước, đầu không ngoảnh lại.

Hiện nay ông làm xà ích ở đoàn xe ngựa của sở công trình công cộng Matxcova.

Sau khi kể cho Ippolit Matveevich nghe câu chuyện có ý nghĩa giáo huấn cao cả đó, Ostap dùng tay áo vét lau chùi hai cái đế giày màu huyết dụ của mình, huýt sáo một điệu nhạc từ biệt và ra đi.

Gần sáng hắn mò về phòng, cởi giày, đặt nó lên mặt chiếc táp-dơn-nuy, xoa xoa vuốt vuốt mãi lớp da giày bóng bẩy và dịu dàng nói:

- Ôi, hai anh bạn bé bỏng của tôi.

- Anh đi đâu về thế? – Ippolit hỏi, giọng ngái ngủ.

- Đi thăm góa phụ, - Ostap đáp khẽ.

- Sao? – Ippolit nhỏm dậy – Và anh sẽ lấy chị ta chứ?

Cặp mắt Ostap ánh lên tinh quái.

- Bây giờ thì tôi phải cưới thật, cưới như một người có danh dự.

Ippolit thấy ngượng ngùng.

- Người phụ nữ ấm nóng là mơ ước của nhà thơ, Ostap nói.

- Tính thẳng thắn của tỉnh lẻ. Trên trung ương, cái món cá nhiệt đới này đã không có từ lâu, nhưng ở vùng ngoại vi và các địa phương thì vẫn còn.

- Bao giờ làm lễ cưới?

- Ngày mốt. Mai không được! Mồng một tháng năm – tất cả đều nghỉ.

- Thế còn công việc của chúng mình? Anh lấy vợ, trong khi có lẽ chúng mình sẽ phải đi Matxcova.

- Thì có gì mà ông phải lo? Phiên họp vẫn tiếp tục như thường.

- Còn vợ?

- Vợ ư? Góa phụ kim cương ư? Vấn đề cuối cùng! Một chuyến công tác gấp theo giấy triệu tập của trung ương. Phải lên báo cáo ở Bộ Tiểu Dân Ủy. Cảnh chia tay và món gà luộc đem đi ăn đường. Ta sẽ khởi hành với đầy đủ tiện nghi. Thôi, ông cứ ngủ đi. Mai là ngày nghỉ của chúng ta.

(1) Dựa theo danh ngôn: “Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân”.


Hết chương 12, xem tiếp chương 13 “HÃY THỞ SÂU HƠN


BẠN ĐANG HỒI HỘP ĐẤY!”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 13
HÃY THỞ SÂU HƠN
BẠN ĐANG HỒI HỘP ĐẤY


Sáng sớm ngày mồng một tháng năm, bị thôi thúc bởi khát vọng hoạt động quen thuộc, Viktor Mikhailovich Polesov chạy ra đường phố và phóng về trung tâm. Ban đầu các tài năng đa dạng của ông không được xử dụng đúng thích đáng, bởi vì dân chúng thưa thớt và các lễ đài có chiến sĩ công an cưỡi ngựa canh gác vẫn vòn vắng vẻ. Nhưng khoảng chín giờ sáng thì các đường phố khác nhau, các dàn nhạc đã cất tiếng rộn rả, náo nhiệt. Các bà nội trợ từ trong nhà túa ra.

Một đội nhạc, mặc áo cổ bẻ, không rõ bằng cách nào len vào giữa đoàn diễu hành của công nhân đường sắt, cứ quẩn vào chân là làm phiền họ.

Chiếc xe vận tải khoác đầu máy xe lửa che kín phía ngoài, làm bằng ván sơn xanh, theo seri, cứ luôn luôn thúc vào sau lưng đội nhạc. Từ trong bụng đầu máy vang ra tiếng nói rất to, hướng về tốp nhạc công cầm sáo và kèn Ô-boa:

- Ai chỉ huy các anh? Đoàn các anh đi đường khác kia mà. Các anh có thấy các anh len vào đây làm nghẽn cả đường hay chưa?

- Lúc ấy, tai hại thay cho đội nhạc công, Viktor Mikhailovich Polesov lên tiếng can thiệp.

- Dĩ nhiên, các anh phải rẽ vào cái ngõ cụt này! Ngày hội mà cũng không biết cách tổ chức! – Polesov quát to: - Rẽ vào đây! Rẽ vào đây! Chẳng còn ra thể thống gì cả!

Xe vận tải của sở công trình công cộng và công trường Melstroi chở đầy trẻ em. Những em bé nhất đứng ngoài thành xe, những em lớn hơn đứng ở giữa. Các chiến sĩ tương lai ưỡn ngực, cố đi đều bước. Chật chội, ồn ào, nóng nực. Chốc chốc, đoàn người bị tắc nghẽn, rồi lại tản thông ngay. Để giết thời gian lúc phải đứng chờ, người ta bế các cụ già và các cán bộ cốt cán tung lên. Các cụ ông kêu lí nhí như các cụ bà. Các cán bộ cốt cán thì bay lên lặng lẽ với vẻ mặt nghiêm túc. Ở một tốp người vui tính nọ, lúc Viktor Polesov lách ngang qua đấy, mọi người tưởng lầm ông ta là vị chỉ huy, bèn hò nhau tung ông ta lên. Polesov giãy giụa chân tay như một gã hề.

Người ta khiêng hình nộm của bộ trưởng Săm-béc-lanh của nước Anh, một công nhân bắp tay cuồn cuộn dùng một cái búa bằng các-tông nện liên tục vào hình nộm.
Ba đoàn viên Com-xô-mon mặc áo đuôi tôm, đeo găng tay trắng ngồi trên ô tô đi qua. Họ ngượng nghịu nhìn đám đông.

- Vaska! – Người đứng trên hè phố gọi to – đồ tư sản! Quẳng cái dây đeo quần xuống đây!

Các cô gái cất tiếng hát. Trong đoàn cán bộ bảo hiểm xã hội, Alkhen đi với chiếc băng đỏ to tướng trên ngực và trầm ngâm kéo dài giọng hát:

Nhưng từ rừng Taiga đến bờ biển nước Anh

Hồng quân, hồng quân mạnh hơn tất cả!...

Đoàn vận động viên thể dục thể thao hô to mấy câu gì đó theo lệnh.

Tất cả xe và người đều đổ về đề-pô xe điện mới, mà từ đó, vào đúng một giờ trưa hôm nay, toa xe điện đầu tiên ở Stargorot phải chạy ra.

Không ai biết chính xác khi nào người ta bắt đầu xây dựng đường xe điện ở Stargorot.

Ấy là vào năm hai mươi, khi bắt đầu những ngày lao động cộng sản chủ nghĩa, anh chị em công nhân xưởng đề-pô và nhà máy dây cáp đã tới khu Gusisa trong tiếng nhạc rộn ràng và đã suốt ngày đào những chiếc hố gì đó.

Họ đào rất nhiều hố to và sâu.

Một đồng chí đội chiếc mũ lưỡi trai kỹ sư chạy đi chạy lại giữa những người đang làm việc. Mấy tay tổ trưởng thi công cầm những cái sào sơn nhiều màu khác nhau bám theo viên kỹ sư. Ngày lao động cộng sản chủ nghĩa tiếp sau, họ lại làm việc ở chính chỗ cũ. Hai cái hố đào không đúng nơi quy định buộc phải lấp đi. Đồng chí kỹ sư quát tháo với các tay tổ trưởng và yêu cầu họ giải thích nguyên nhân. Những cái hố mới được đào sâu hơn và rộng hơn.

Sau đó người ta chở gạch đến, và xuất hiện những công nhân xây dựng thực thụ. Họ bắt đầu đào móng. Sau đấy chẳng thấy làm gì nữa. Đồng chí đội mũ kỹ sư thỉnh thoảng có tới công trường vắng bóng người và đi đi lại lại hồi lâu dưới lòng hố móng lát gạch, miệng lẩm bẩm:

-Hạch toán kinh tế đây.

Ông dùng gậy gõ gõ, chọc chọc xuống nền móng rồi chạy về nhà, về nội thành, hai tay đưa lên che hai cái tai rét cóng.

Viên kỹ sư tên là Treukhov…

Cái ga xe điện, mà việc xây dựng nó bị đình lại khi mới làm xong nền, được Treukhov nghĩ ra từ lâu. Hai năm sau, Treukhov lại mở đợt đột phá tòa thị chính lần nữa, nhưng chiến tranh bùng nổ. Sau chiến tranh, đến cách mạng ngăn trở. Và bây giờ thì nó bị ngăn trở bởi chính sách kinh tế mới, bởi hạch toán kinh tế và nguyên tắc tự hoàn vốn. Cái nền mọc đầy hoa cỏ vào mùa hè, còn mùa đông thì trẻ con đắp lên đó những núi băng nho nhỏ.

Treukhov mơ ước một sự nghiệp lớn. Ông chán ngấy cái cảnh làm việc ở Sở công trình công cộng Stargorot, sửa chữa các vỉa hè và lập dự toán xây dựng các bệ áp-phích. Nhưng sự nghiệp lớn chả thấy đâu. Bản thiết kế đường xe điện lại được đưa ra nghiên cứu, xét duyệt ở các cấp cao nhất của tỉnh, được thông qua rồi lại bị bác bỏ, được gửi lên trung ương phê chuẩn, nhưng dù được thông qua hay không, thì nó vẫn nằm đấy, phủ đầy bụi bặm, bởi vì chả ai cấp kinh phí cho nó.

-Dã man, thế là dã man! – Treukhov quát vợ. – Không có tiền à? Thế tốn bao nhiêu tiền để trả cho bọn xe thồ chở hàng ra ga thì có ư? Bọn xe thồ lột da của người sống lẫn người chết! Đúng là độc quyền ăn cướp! Thì cứ thử vác một bao hàng đi bộ năm cây số ra ga xem nào!... Làm đường xe điện thì chỉ sáu năm sau là hoàn đủ số vốn bỏ ra thôi!

Bộ ria lốm đốm bạc của ông vểnh lên giận dữ. Cái mũi hếch phập phồng. Ông rút từ ngăn kéo bàn ra một tờ giấy xanh vẽ đồ án thiết kế và cáu kỉnh chìa vào mặt vợ có đến hàng ngàn lần. Nào bản vẽ ga tàu điện, nào bản vẽ đề-pô và mười hai tuyến đường xe điện.

-Ừ thì mặc xác mười hai tuyến! Sau hẵng hay! Nhưng chỉ cần ba, ba tuyến thôi. Không có ba tuyến xe điện, thành phố sẽ không còn là thành phố nữa.

Treukhov chép miệng và đi xuống bếp chẻ củi.
Toàn bộ công việc nội trợ đều do ông đích thân đảm nhiệm. Ông đã thiết kế và xây dựng một cái nôi cho con và một cái máy giặt. Ban đầu, ông tự giặt lấy, vừa giặt vừa giảng giải cho vợ cách điều khiển chiếc máy ấy như thế nào. Ít nhất thì một phần năm tiền lương của Treukhov cũng bị tiêu tốn vào việc đặt mua sách báo kỹ thuật nước ngoài. Để khỏi sa vào cảnh nghèo đói, ông đã cai thuốc lá.

Treukhov lôi cả bản thiết kế của mình lên gặp vị giám đốc mới của sở công trình công cộng Stargorot là đồng chí Gavrilin mới chuyển công tác từ Samarkand đến. Vị giám đốc mới này da ngăm ngăm vì ánh nắng xứ Turkestan, nghe Treukhov hàng tiếng đồng hồ, nhưng không có vẻ chú ý lắm. Anh ta lơ đễnh xem lại tất cả các bản vẽ; rồi nói:

-Ở vùng Samarkand của tôi chả cần gì tàu điện cả. Ở đấy mọi người đều cưỡi lừa. Mỗi con lừa giá ba rúp, rẻ ơi là rẻ. Thế mà thồ được hàng tạ!... Con vật bé bỏng mà khỏe lạ lùng!

-Thế mới được gọi là Châu Á! – Treukhov giận dữ nói. – Con lừa giá ba rúp, nhưng nuôi nó tốn những ba chục rúp một năm.

-Thế ba chục rúp mà đi tàu điện của ông thì được bao nhiêu lần? Ba trăm lần. Nghĩa là trong một năm, không phải này nào cũng được đi tàu điện.

-Thì ông hãy đặt mua một lũ lừa cho mình đi! – Treukhov nói to và chạy ra khỏi phòng, đóng của cái sầm.

Từ ngày ấy ông giám đốc mới có thói quen là mỗi khi gặp Treukhov, ông lại hỏi đùa:

-Thế nào, ông kỹ sư, ta đặt mua lừa hay là xây dựng tàu điện?

Mặt Gavrilin trông giống một củ cải gọt vỏ nhẵn nhụi. Cặp mắt nheo nheo tinh quái.

Hai tháng sau, Gavrilin gọi Treukhov đến gặp mình và nghiêm trang nói:

-Tôi đã vạch một kế hoạch nhỏ. Tôi biết rõ một điều là không có tiền, rằng tàu điện không phải ngang giá một con lừa, ba rúp không mua nổi tàu điện. Phải có cơ sở vật chất. Vậy giải quyết bằng cách nào? Hội cổ phần! Cách nào nữa? Đi vay trả lãi. Sau mấy năm thì tàu điện được hoàn vốn?

-Tính từ ngày đưa vào sử dụng ba tuyến đường đầu tiên thì mất sáu năm.

-Thôi, ta cứ coi là sau mười năm. Bây giờ bàn về hội cổ phần. Ai sẽ tham gia? Tơ-rớt chăn nuôi gia cầm này. Công ty bơ này. Nhà máy làm dây cáp có cần tàu điện không? Có chứ! Ta sẽ dùng tàu điện chở hàng ra tận ga xe lửa cho họ. Nghĩa là cả nhà máy làm dây cáp! Bộ dân ủy giao thông có thể sẽ cho ta ít tiền. Rồi ban chấp hành Xô Viết thành phố cho một ít. Chắc chắn như vậy. Khi ta khởi công, ngân hàng nhà nước sẽ cho vay tín dụng. Đó, kế hoạch nhỏ của tôi là như thế đấy. Thứ sáu này đoàn chủ tịch Ban chấp hành Xô Viết tỉnh sẽ bàn. Nếu được thông qua là ta bắt tay làm luôn.

Tối hôm ấy Treukhov xúc động giặt giũ quần áo đến khuya và giảng giải cho bà vợ nghe những ưu việt của giao thông bằng tàu điện so với việc dùng súc vật kéo.

Hôm thứ sáu, vấn đề được thông qua. Và những nỗi đau khổ bắt đầu. Vất vả lắm mới lập được cái hội cổ phần. Bộ dân ủy giao thông lúc thì tham gia, lúc lại không. Tơ-rớt chăn nuôi gia cầm tìm mọi cách từ chối đóng góp 15% cổ phần và chỉ nhận 10%. Cuối cùng thì toàn bộ số cổ phần cũng được phân chia xong, dù rằng không tránh khỏi một cuộc xung đột. Vì chuyện gây sức ép, Gavrilin đã bị gọi lên ủy ban thanh tra tỉnh. Song mọi việc đều trót lọt. Chỉ còn việc khởi công.

-Nào, đồng chí Treukhov, - Gavrilin nói – bắt đầu đi. Ông có cảm thấy ông xây dựng được không đấy? Này, không dễ như chuyện mua lừa đâu nhé.

Treukhov lao vào công việc. Đã bắt đầu cái sự nghiệp vĩ đại mà bao năm nay ông hằng mơ ước. Ông viết các bản dự toán, lập kế hoạch thi công, thảo các đơn đặt hàng. Các khó khăn như nảy sinh ở chỗ mà người ta ít chờ đợi chúng hơn cả. Stargorot không có thợ đổ bê-tông lành nghề, phải mời số thợ ấy từ Leningrat về. Gavrilin thúc giục, nhưng các nhà máy hứa rằng phải một năm rưỡi sau mới có thể cung cấp máy móc. Mà chậm nhất là sau một năm đã phải có máy móc rồi. Đành phải dọa rằng sẽ đặt mua máy của nước ngoài, họ mới chịu theo ý mình. Tiếp đến những chuyện bực mình nhỏ hơn. Khi thì không tìm đâu ra loại sắt có kích thước cần dùng, khi thì người ta chở đến những thanh tà-vẹt chưa được ngâm tẩm. Treukhov phải đích thân đến xí nghiệp chế tạo tà-vẹt và chứng minh cho họ thấy rằng 60% tà-vẹt thuộc loại phế phẩm. Loại bằng gang thì thủng lỗ chỗ, loại bằng gỗ thì còn ẩm nguyên. Đường ray tốt đấy, nhưng cung cấp chậm hàng tháng trời. Gavrilin thường đáp chiếc xe “Fiat” cũ kỹ, ọc à ọc ạch của mình đến công trường xây dựng đề-pô. Tại đây Gavrilin và Treukhov hay to tiếng với nhau.

Trong thời gian xây dựng đề-pô và lắp đặt xưởng làm xe điện, dân chúng Stargorot tha hồ buông lời giễu cợt.

Trên tờ báo “Sự thật Stargorot”, nhà văn châm biếm nổi tiếng khắp thành phố là Print Đatski, với bút danh “Bánh lái”, chuyên viết tiểu phẩm về các vấn đề xe điện. Ít nhất ông viết ba bài mỗi tuần về tiến trình xây dựng. Cột thứ ba của tờ báo cứ nhan nhãn những cái tít đầy hoài nghi: “Chẳng thấy hơi hướng câu lạc bộ”, “Những điểm yếu kém”, “Kiểm tra cũng cần đấy, nhưng có nên kéo bầu đoàn thê tử hay không?”, “Tốt và … xấu”, “Ta mừng cái gì và không mừng cái gì”, “Chặn tay những kẻ phá rối nền giáo dục”, “Đã đến lúc chấm dứt biển giấy tờ”, nay bắt đầu tặng độc giả những cái tít mới đầy nhuệ khí của "Bánh lái" như: “Chúng ta xây dựng như chúng ta đang sống”, “Công trình khổng lồ sắp hoạt động”, “Người xây dựng khiêm tốn”, vân vân và vân vân.

Treukhov run run giở số báo ra và với cảm giác ghê tởm những người anh em làng báo, ông đọc những dòng sảng khoái viết về mình:

“Tôi leo lên các vì kèo. Gió thổi lùng bùng trong lỗ tai. Đứng trên cao là ông ta, người kỹ sư xây dựng xí nghiệp tàu điện khổng lồ của chúng ta, một kẻ hình dáng xấu xí, mũi hếch, gầy nhom, đầu đội một chiếc mũ nhếch nhác.

Tôi chợt nhớ đến câu thơ: “Anh đứng trên bờ sóng sa mạc, với ngập tràn những suy ngẫm vĩ đại”.

Tôi tiến lại gần. Không một làn gió nhẹ. Cái vì kèo chả chịu rung rinh gì hết.

Tôi hỏi:

-Các anh có hoàn thành nhiệm vụ được không?

Bộ mặt xấu xí của nhà xây dựng, kỹ sư Treukhov, sinh động hẳn lên.

Ông ta bắt tay tôi và nói:

-Bảy chục phần trăm nhiệm vụ đã được hoàn thành.

Và bài báo kết thúc như sau:

Ông ta bắt tay tôi lúc chia tay…. Những cái vì kèo kêu vo vo.

Công nhân đi đi lại lại.

Ai có thể quên được không khí sôi sục của một công trường xây dựng, quên được hình dáng cặm cụi của người thợ xây dựng của chúng ta.

"Bánh lái"


Rất may cho Treukhov là ông không có thời gian đọc báo và đôi khi có thể bỏ qua các bài viết của đồng chí "bánh lái"

Một lần Treukhov không chịu nỗi nữa, đã viết lời phủ nhận với nội dung cay độc, sau nhiều phút suy nghĩ kỹ lưỡng. Ông viết:

“Dĩ nhiên, cái bu-long không thể gọi là cái trục truyền động, nhưng đó là sự nhầm lẫn chỉ của những kẻ không hiểu tí gì về công tác xây dựng. Sau nữa, tôi muốn lưu ý đồng chí "Bánh lái", rằng các vì kèo chỉ rung rinh và kêu vo vo khi nào công trình xây dựng sắp đổ sụp mà thôi. Không dưng vô vớ mà tả như vậy thì chẳng khác gì bảo rằng cây đàn Vi-ô-lông có thể đẻ con. Xin đồng chí "bánh lái" phát ngôn thận trọng cho.”

Sau bài này, nhà báo Prints Đatski thôi không đến công trường, nhưng những bài ký của ông ta vẫn tiếp tục tô điểm cho cột thứ ba của tờ báo và nổi bật với những cái tít đại loại như : “15000 rúp đang han rỉ”, “Những túp lều – nhà ở”, “Vật liệu than khóc”, “Chuyện tức cười và giọt nước mắt”.

Việc xây dựng sắp hoàn thành. Các đường ray được hàn liền với nhau theo phương pháp hàn lửa không còn tí kẽ hở nào suốt một đoạn dài từ ga xe lửa đến lò sát sinh và từ chợ trời đến nghĩa trang.

Ban đầu lễ khánh thành đường ray xe điện được dự định làm vào dịp kỷ niệm chín năm cách mạng tháng Mười, nhưng nhà máy chế tạo toa xe việc cớ thiếu sắt, không cung cấp các toa xe đúng hạn. Đành phải lùi buổi lễ đến dịp mồng một tháng năm, đến ngày ấy thì tất cả mọi thứ đều đã xong xuôi.

Hai thành viên của hợp đồng tha thẩn cùng với đoàn diễu hành đi tới Gusisa. Cả Stargorot đã tụ tập về đây. Tòa nhà mới của đề-pô được viền xung quanh bằng những cây lá nhọn, những lá cờ bay phần phật , gió đùa giỡn trên các băng khẩu hiệu. Một chiến sĩ công an cưỡi ngựa phi nước đại đến chỗ gã bán kem đầu tiên, - gã này chẳng hiểu bằng cách nào lọt vào khoảng đất trống do một hàng rào nhân viên ngành xe điện canh gác. Giữa hai cánh cổng lớn của đề-pô nổi cao lên một lễ đài, nói đúng hơn là một diễn đàn tạm bợ, được gắn một chiếc loa phóng thanh. Các đại biểu tiến lại bên lễ đài. Dàn nhạc khí của sở công trình công cộng và nhà máy dây cáp đang thử sức bộ phổi của mình. Một chiếc trống đặt nằm dưới đất.

Trong khu vực đề-pô sáng sủa, nơi có mười toa xe điện màu xanh nhạt, được đánh số từ 701 đến 710, một phóng viên từ Matxcova về, đầu đội mũ cát-két dạ, đang thong thả đếm bước. Trên ngực đeo một chiếc máy anh mà cứ chốc chốc anh ta lại chăm chú nhòm vào đó như lúc soi gương. Phóng viên đang tìm kỹ sư trưởng để phỏng vấn mấy câu về đề tài xe điện. Mặc dù trong đầu đồng chí phóng viên, bài ký về lễ khánh thành đường xe điện kèm theo đề cương các bài diễn văn sắp đọc đã chuẩn bị xong xuôi, song anh ta vẫn tiếp tục quan sát và thấy rằng ở đây chỉ có một thiếu sót là không có căng-tin.

Đám đông ca hát, kêu thét ầm ĩ và gặm nhấm các thứ quả có hột trong khi chờ đợi tàu điện ra mắt.

Đoàn chủ tịch Ban chấp hành Xô Viết tỉnh bước lên lễ đài. Prints Đatski ấp úng trao đổi vài câu với đồng nghiệp từ Matxcova về. Mọi người đang chờ mong nhóm quay phim thời sự của thủ đô.

-Thưa các đồng chí! – Gavrilin nói – Xin tuyên bố khai mạc buổi mít-tinh trọng thể nhân dịp khánh thành tàu điện Stargorot.

Những chiếc kèn đồng chao qua chao lại, thở dồn dập và thổi liền ba lần bài “Quốc tế ca”.

Gavrilin nói to:

-Xin giới thiệu đồng chí Gavrilin lên báo cáo!

Prinst Đatski – "Bánh lái" – và vị khách Matxcova không ai bảo ai, cùng ghi vào sổ tay của mình.

“Buổi mít-tinh trọng thể được mở đầu bằng bản báo cáo của giám đốc sở công trình công cộng Stargorot, đồng chí Gavrilin. Công chúng lắng nghe”.

Hai phóng viên là những người hoàn toàn khác nhau. Vị khách Matxcova còn trẻ, chưa vợ, Prinst – "Bánh lái" thì đã có một gia đình đông con, đã sang cái tuổi ba mươi từ lâu. Một người luôn luôn sống ở Matxcova, người kia chưa đến Matxcova bao giờ. Một người thích bia, còn "Bánh lái" thì ngoài rượu Voska, không uống loại nào khác. Song mặc dù có sự khác nhau ấy về tính nết, thói quen, tuổi tác và sự giáo dục, ấn tượng của cả hai phóng viên đều được đúc kết bằng những câu văn sáo rỗng, nhàm chán. Ngòi bút của họ ngoáy lia lịa, và trong sổ tay hiện lên dòng chữ mới: “Trong ngày hội này, đường phố Stargorot dường như rộng thêm ra…”

Gavrilin mở đầu bài diễn văn của mình một cách đơn giản và hấp dẫn.

-Xây dựng tàu điện – Gavrilin nói – đó không phải là chuyện mua lừa.

Trong đám đông đột nhiên nổ ra tiếng cười ha hả của Ostap Bender. Hắn đánh giá cao câu nói ấy. Phấn khởi vì được hưởng ứng, Gavrilin bỗng dưng nói về tình hình thế giới, chính anh cũng chẳng hiểu vì sao mình làm như vậy. Đã mấy lần anh ta cố đưa bản báo cáo chạy trên đường ray tàu điện, nhưng đều kinh hãi nhận ra rằng mình không tài nào làm nỗi việc đó. Những câu nói, tự chúng, trái với ý muốn của diễn giả, hóa thành những câu mang tầm cỡ quốc tế. Sau Săm-béc-lanh (kẻ được Gavrilin dành cho nửa tiếng), thì nghị sĩ Bô-ra của nước Mỹ bước ra vũ đài quốc tế. Công chúng sững sờ. Hai phóng viên đồng loạt ghi chép “Bằng những câu nói đầy hình ảnh, diễn giả miêu tả tình hình quốc tế của Liên bang Xô Viết chúng ta …”. Hăng máu lên, Gavrilin tung ra những nhận định xấu xa về bọn đại điền chủ ở Rumania, rồi chuyển sang Mussolini. Mãi đến cuối bài diễn văn anh ta mới khắc phục được cái bản tính quốc tế thứ hai của mình để quay về với những lời nói thực tế dễ lọt tai:

-Thưa các đồng chí, cho nên tôi nghĩ rằng chuyến tàu điện đầu tiên sắp từ đề-pô chạy ra là nhờ công lao của ai? Thưa các đồng chí, dĩ nhiên là nhờ các đồng chí, nhờ tất cả những người công nhân thực sự làm việc không phải vì sợ roi vọt, mà vì lương tâm, các đồng chí ạ. Ngoài ra, thưa các đồng chí, còn nhờ một chuyên gia Xô Viết trung thực, ấy là kỹ sư trưởng Treukhov. Xin cám ơn cả Treukhov nữa!...

Mọi người đổ xô đi tìm Treukhov, nhưng không thấy. Đại diện các nhà máy bơ, một người sốt ruột chờ đến lượt mình phát biểu từ lâu, lén ra lan can của lễ đài, vung tay và nói rất to về tình hình thế giới. Khi bài diễn văn của vị này chấm dứt, cả hai phóng viên dỏng tai nghe mấy tiếng vỗ tay lẹt đẹt, đã ghi rất nhanh vào sổ: “… tiếng vỗ tay rầm rộ nổi lên như sóng cồn…”. Sau đó hai người cầm bút nghĩ lại về mấy chữ “nổi lên như sóng cồn”… ngại rằng viết như thế hơi quá tay chăng. Anh phóng viên Matxcova bèn quả quyết xóa mấy chữ ấy đi. "Bánh lái" thì thở dài không xóa.

Mặt trời đã xế chiều. Trên diễn đàn, các đại biểu vẫn chúc mừng. Dàn nhạc chốc chốc lại nổi lên nhạc chào. Ánh nắng sắp tắt, mà buổi mít-tinh vẫn tiếp diễn. Cả người nói lẫn người nghe đều cảm thấy đã xảy ra chuyện gì trục trặc, cuộc mít-tinh đã quá lâu, phải mau chóng cho tàu điện ra mắt. Nhưng mọi người đã quen nói đến mức không thể ngừng lại được.

Cuối cùng người ta tìm thấy Treukhov lấm lem dầu mỡ. Trước khi bước ra diễn đàn, ông phải rửa mặt mũi chân tay khá lâu trong văn phòng.

Gavrilin vui mừng báo tin:

-Mời đồng chí kỹ sư trưởng Treukhov lên phát biểu! Nào, ông nói đi, kẻo tôi cứ nói toàn chuyện đâu đâu, - câu sau anh ta nói nhỏ với Treukhov.

Treukhov muốn nói nhiều điều. Nói về những ngày lao động cộng sản chủ nghĩa, về công việc nặng nhọc, về tất cả những gì đã làm và còn có thể làm. Mà những việc có thể làm được thì không ít: nào giải phóng thành phố khỏi cái thứ chợ trời hay lây, nào xây dựng các chợ có mái che, nào xây dựng chiếc cầu cố định thay thế cho chiếc cầu tạm bợ mà năm nào cũng bị băng cuốn trôi, cuối cùng có thể thực hiện các dự án thiết kế một lò mổ lớn có thiết bị ướp lạnh.

Treukhov há miệng, ngập ngừng nửa phút, rồi nói:

-Thưa các đồng chí, tình hình thế giới của nước ta…

Tiếp đó, ông tuôn ra hàng tràng những chân lý sơ đẳng khiến cho đám đông đã nghe năm bài diễn văn về tình hình thế giới đành phải tỏ thái độ lạnh nhạt. Phát biểu xong, Treukhov mới sực hiểu rằng ông chưa nói lời nào về tàu điện cả. “Vớ vẩn thật, - ông nghĩ thầm, - quả thật chúng ta không biết nói năng, tuyệt đối không biết”.

Rồi ông nhớ lại lời phát biểu của một người cộng sản Pháp mà ông được nghe tại một cuộc họp ở Matxcova. Người ấy nói về báo chí tư sản. “Những diễn viên hào lộn ấy, những chuyên gia tung hứng ấy, những cái máy Rô-ta-típ ấy….” Phần đầu bài phát biểu người Pháp dùng nốt la, phần thứ hai dùng nốt đô và phần kết, phần bi tráng nhất thì hạ xuống nốt mi. Điệu bộ của anh ta rất khoan thai và đẹp mắt.

“Còn ta thì nói năng vớ vẩn, - Treukhov tự phê phán, - lẽ ra chẳng nên đăng đàn làm gì.”

Trời đã tối hẳn thì đồng chí chủ tịch Ban chấp hành Xô Viết tỉnh mới cầm kéo cắt chiếc băng đỏ chăng ngang của đề-pô. Anh em công nhân và đại biểu các tổ chức xã hội bắt đầu ồn ào leo lên các toa tàu điện. Mấy tiếng chuông rung leng keng, rồi toa tàu thứ nhất do đích thân Treukhov lái chạy ra khỏi đề-pô giữa tiếng reo hò của công chúng và tiếng rền rĩ của dàn nhạc. Những toa tàu sáng rực hơn cả ánh sáng ban ngày. Chúng nối đuôi nhau chạy qua dưới gầm chiếc cầu xe lửa ở khu Gusisa, nhẹ nhàng chạy vào nội thành và ngoặt sang đại lộ Đại Puskin. Dàn nhạc ngồi ở toa số hai, các nhạc công chĩa kèn ra ngoài cửa sổ, tấu hài hành khúc Budionui

Gavrilin mặc chiếc áo tu-giua-ca của người soát vé, chiếc xà cột có dây vắt qua vai, nhảy từ toa này sang toa kia, mỉm cười thân ái, rung chuông không đúng lúc và trao cho hành khách những chiếc vé mời.


VÉ MỜI ĐI DỰ DẠ HỘI TRỌNG THỂ



Ngày 1 tháng 5 vào lúc
9 giờ tối

Tại câu lạc bộ sở công trình công cộng
Tổ chức kèm theo chương trình sau đây:
1-Báo cáo của đồng chí Mosin
2-Sở công trình công cộng tặng bằng khen.
3-Phần liên hoan: ca nhạc và liên hoan mặn thân mật.


Ở bậc lên xuống của toa cuối cùng, Viktor Mikhailovich Polesov đang đứng đó, không rõ bằng cách nào ông ta lọt được vào số hành khách danh dự của chuyến tàu này. Polesov ngửi ngửi cái động cơ và cực kỳ kinh ngạc vì thấy nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn chạy tốt. Kính cửa không hề rung. Nhìn kỹ, Polesov mới nhận ra rằng đó là nhờ cửa kính có đệm cao su.

Ông ta đã lên tiếng góp ý mấy lần với nhân viên phụ trách toa và được công chúng coi là một chuyên gia về tàu điện ở phương tây.

-Phanh không khí làm việc tồi lắm – Polesov vừa tuyên bố, vừa đắc thắng nhìn hành khách, chả thấy “ăn” gì cả.

-Không ai hỏi ý kiến ông, - người phụ trách toa nói, - Ăn hay không còn tùy.

Sau khi chạy một tua trong thành phố, các toa tàu trở về đề-pô nơi công chúng vẫn đứng chờ. Người ta công kênh Treukhov dưới ánh sáng rực rỡ của các ngọn đèn điện. Người ta cũng công kênh cả Gavrilin, nhưng vì anh ta nặng đến sáu pút (1), không bay cao được, nên lát sau họ buông anh ta ra. Người ta công kênh đồng chí Mosin, các cán bộ kỹ thuật và công nhân . Viktor Polesov lại được công kênh, đây là lần thứ hai trong ngày. Lần này ông ta không khua khoắng hai chân nữa mà nghiêm trang và chăm chú hướng lên bầu trời đầy sao, người bay bổng trong bóng tối. Đang chuẩn bị kế hoạch bay một lần nữa, thì Polesov nhận ra rằng người đang túm chân ông ta và cười khùng khục chẳng phải ai khác, mà chính là ngài cựu đô thống Ippolit Matveevich Vorobjaninov. Polesov bèn nhẹ nhàng gỡ tay Ippolit ra, lánh sang một bên, nhưng mắt thì dán chặt vào ngài cựu đô thống. Thấy Ippolit cùng với một người lạ mặt trẻ tuổi, chắc hẳn là sĩ quan quân đội cũ, bỏ ra về, Polesov liền thận trọng bám theo họ.

Khi tất cả đã xong xuôi và Gavrilin đã ngồi trong chiếc xe Fiat màu tím của mình chờ kỹ sư Treukhov đang ra những mệnh lệnh cuối cùng, để cùng về câu lạc bộ, thì một chiếc xe Ford nửa du lịch, nửa vận tải, chở các nhà quay phim thời sự, chạy vào cổng đề-pô.

Từ trong xe một người đàn ông đeo kính gọng sừng thập nhị giác, mặc chiếc áo da cộc tay rất điệu, khéo léo nhảy ra. Bộ râu dài và nhọn của ông ta mọc thẳng từ yết hầu ra. Người đàn ông thứ hai lễ mễ bưng ra chiếc máy quay phim, anh ta quàng một chiếc khăn pu-la dài loằng ngoằng theo cái kiểu mà Ostap Bender quen gọi là “siêu mô-đéc”. Tiếp đó, từ trong xe chui ra các vị trợ lý, nhân viên phụ trách đèn pha và mấy cô gái.

Cả tốp làm phim í ới chạy bổ vào đề-pô.

-Chú ý! – Người đàn ông mặc áo da, râu nhọn hét to – Kolia, rọi đèn pha đi!

Treukhov ngập ngừng tiến về phía các vị khách đến muộn.

-Các đồng chí xưởng phim phải không? – Ông hỏi – Sao các đồng chí không đến lúc ban ngày?

-Thế lễ khánh thành dự kiến vào lúc mấy giờ?

-Làm lễ xong cả rồi.

-À, à, chúng tôi bị chậm một chút. Chả là thời tiết đẹp quá mà. Công tác lại nhiều. Cảnh hoàng hôn đẹp tuyệt trần! Nhưng không sao, bọn tôi biết cách chu đáo. Nào, Kolia! Rọi đèn pha đi! Bánh xe đang quay! Chiếu đèn rộng nữa ra! Những bước chân rầm rập của đám đông! Rộng nữa ra! Linda đâu! Mila đâu! Bước qua chỗ ống kính đi! Kolia! Nào, rọi đèn đi! Các cô bước cho hùng dũng xem nào! Đi đi, đi đi, đi đi… Được rồi. Cám ơn. Bây giờ ta sẽ quay hình ảnh nhà xây dựng. Đồng chí Treukhov? Nào, xin đồng chí Treukhov làm ơn giúp bọn tôi một tay! Không, không, thế này kia. Ngẹo đầu một chút nữa! Thế… thế, dịch sang phải để lấy nền tàu điện… Kolia! Rọi đèn đi! Đồng chí nói cho vài câu đồng chí Treukhov!...

-Tôi ấy à, nó cứ mất tự nhiên thế nào ấy!...

-Tuyệt, tuyệt vời! Hay quá! Đồng chí nói nữa đi! Bây giờ đồng chí hãy nói với nữ hành khách đầu tiên nhé… Linda! Bước lại gần ống kính đi! Thế. Thở sâu vào nào, các bạn đang hồi hộp quá đấy! Kolia! … Rọi đèn xuống chân! Quay đi! Thế … thế … cám ơn lắm! S-tốp!

Gavrilin nặng nề chui ra khỏi chiếc Fiat nổ máy từ lâu, để gọi ông kỹ sư lề mề. Ông đạo diễn có yết hầu đầy râu phấn chấn hẳn lên.

-Kolia! Lại đây! Cảnh này mới tuyệt đây! Công nhân đâu! Hành khách đâu! Xin các vị thở sâu cho. Các vị đang xúc động đấy. Các vị chưa từng đáp tàu điện mà lại! Nào! Thở cho sâu vào!

Gavrilin khó chịu hít một hơi dài.

-Tuyệt đỉnh!... Mila, lại đây, cô em! Thay mặt cho đoàn Com-xô-môn chúc mừng đi! … Thở cho sâu nào! … Các bạn đang xúc động quá đấy. Thế!... Hay lắm. Kolia, xong rồi!

-Thế có quay toa tàu không ạ? Treukhov ngập ngừng hỏi.

-Đồng chí thấy đấy, - vị đạo diễn mặc áo da ấp úng, - điều kiện ánh sáng không cho phép… phải về quay cảnh tàu điện ở Matxcova vậy. Cám ơn!

Tốp làm phim biến mất trong chớp mắt.

-Thôi, ta đi nghỉ thôi, anh bạn, - Gavrilin nói – Sao, ông lại hút thuốc lá đấy hả?

-Vâng, lại nghiện mất rồi – Treukhov đáp – không cai nổi.

Tại buổi liên hoan mặn, kỹ sư Treukhov đói meo và hút nhiều thuốc lá nên mới uống ba ly rượu voska đã say mèm. Ông hôn tất cả mọi người và mọi người đều hôn ông. Ông muốn nói một lời dịu dàng với vợ, nhưng lại chỉ cười ha hả. Sau đó ông lắc lắc mãi bàn tay của Gavrilin và nói:

-Anh lạ lắm! Anh nên học thiết kế các cầu xe lửa, Gavrilin ạ. Đấy là một khoa học tuyệt diệu. Và cái chính là nó rất đơn giản, tuyệt đối đơn giản. Một chiếc cầu bắc qua sông Gutzon,…

Nửa tiếng sau, Treukhov đã say hoàn toàn, ông cất giọng tố cáo giới báo chí tư sản:

-Những lực sĩ tung hứng ấy, những chuyên gia nhào lộn ấy, những diễn viên Rô-ta-típ ấy,… - ông hét lên.

Vợ ông phải thuê xe ngựa dìu ông về nhà.

-Tôi muốn đi tàu điện cơ! – Ông bảo vợ - sao bà không thông cảm với tôi nhỉ? Nếu đã có tàu điện, thì phải đi tàu điện chứ!... Tại sao? Thứ nhất là nó rẻ…



Polesov bám sát hai thành viên của hợp đồng, cố kìm lòng mãi, chờ tới lúc không còn ai xung quanh, mới tiến lại gần Ippolit Matveevich.

-Chào ngài đô thống ạ! – Ông ta cung kính nói.

Ippolit chết sững.

-Tôi không có hân hạnh quen biết ông, - Ippolit đáp.

Ostap khuỳnh vai phải, bước tới ông thợ nguội quý phái.

-Sao, hắn nói, - ông muốn gì ở ông bạn của tôi?

Polesov ngó quanh, nói nhỏ:

-Xin hai ngài đừng lo, tôi được bà Elena Bour cử đến…

-Sao? Bà ấy ở đây à?

-Vâng, và rất mong gặp ngài.

-Để làm gì? – Ostap hỏi – Thế ông là ai?

-Tôi, xin ngài đô thống đừng nghĩ xấu về tôi. Ngài không biết tôi, chứ tôi nhớ ngài rõ lắm.

-Kể ra tôi cũng muốn gặp Elena Bour – Ippolit ngập ngừng nói.

-Bà ấy khẩn khoản mời ngài đến đấy ạ.

-Nhưng làm sao bà ấy biết tôi về?...

-Tôi gặp ngài ở hành lang sở công trình công cộng và cứ nghĩ mãi: khuôn mặt quen quá. Rồi tôi nhớ ra. Xin ngài đô thống đừng nghi ngại chi hết! Tất cả sẽ hoàn toàn bí mật.

-Bà ta là chỗ quen biết hả? – Ostap nghiêm trang hỏi.

-Vâng, người quen cũ.

-Thế thì có lẽ ta ghé lại nhà người quen cũ ăn tối chăng? Bụng tôi đang đói cồn cào lên đây, mà quán ăn nào cũng đóng cửa cả rồi.

-Có lẽ…

-Thì đi, nào, người lạ mặt bí hiểm. Hãy dẫn chúng tôi đi.

Polesov đưa hai thành viên của hợp đồng đi tắt qua các sân. – vừa đi vừa ngoảnh lại phía sau xem có ai theo dõi không – đến nhà mụ thầy bói ở Pereleshin.

(1) Một pút (đơn vị đo lường cũ của Nga) = 16,38 kg.


Hết chương 13, xem tiếp chương 14 “LIÊN MINH LƯỠI KIẾM VÀ LƯỠI CÀY”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 14
LIÊN MINH LƯỠI KIẾM VÀ LƯỠI CÀY

Khi người đàn bà trở về già, nhiều chuyện khó chịu có thể xảy ra với bà ta: răng có thể rụng, tóc có thể bạc và thưa dần, có thể khó thở, có thể phì nộn, có thể gầy teo, nhưng giọng nói sẽ không thay đổi. Nó vẫn trong trẻo như ngày còn là cô nữ sinh trung học, là vợ chưa cưới hoặc nhân tình của một tên du đãng.

Bởi vậy, khi Ippolit gõ cửa và Elena Bour hỏi vọng ra “Ai đấy?” thì Ippolit lặng tim đi. Giọng nói của người tình của ông vẫn hệt như năm một ngàn chính trăm lẻ chín, trước ngày khai trương hội chợ triển lãm ở Pari. Nhưng khi bước vào phòng và nheo mắt vì ánh sáng, Ippolit Matveevich thấy rằng vẻ đẹp ngày xưa không để lại chút dấu tích nào.

-Chị thay đổi ghê quá, bất giác ông nhận xét.

Bà Elena gục vào ngực ông.

-Cám ơn anh, - bà nói – em biết rằng anh phải liều mình ra sao khi đến thăm em. Anh vẫn là chàng hiệp sĩ cao cả ngày xưa. Em không hề hỏi anh từ Pari về đây làm gì? Anh thấy chưa, em đâu phải là kẻ tò mò.

-Nhưng có phải tôi từ Pari về đâu! Ippolit bối rối nói.

-Tôi và ông nhà đây ở Béc-lin về đấy, - Ostap bóp khuỷu tay của Ippolit, nói chữa, - xin chớ nói cho ai biết điều đó.

-Ôi, em mừng xiết bao khi gặp anh! – Mụ thầy bói reo lên – Nào, mời anh sang phòng bên này… Còn ông Polesov, xin lỗi, độ nửa tiếng nửa ông hãy quay lại được không?

-Ô! – Ostap nhận xét – cuộc gặp gỡ đầu tiên mà lại! Những phút giây khó nói! Xin phép cho tôi cũng được lui ra. Thưa ông Polesov đáng yêu, tôi đi cùng ông được chứ?

Lão thợ nguội mừng rơn, kéo Ostap đến phòng mình. Tại đó, Ostap ngồi trên các mảnh cánh cổng của nhà số No5 cùng phố, bắt đầu vẽ ra trước mắt lão thợ nguội tá lẽ, sững sờ, những tư tưởng mê hoặc ngả theo chiều hướng cứu quốc.

Một giờ sau, họ quay trở lại nhà Elena Bour và thấy hai kẻ già nua trở nên đờ đẫn.

-Mình vẫn nhớ chứ, Elena? – Ippolit hỏi.

-Anh vẫn nhớ đấy chứ, Ippolit? – Elena cũng hỏi.

“Có lẽ đã đến thời điểm tâm lý của bữa tối rồi đây”, - Ostap nghĩ bụng. Hắn ngắt lời Ippolit lúc này đang gợi lại kỳ bầu cử vào hội đồng dân biểu thành phố.

-Ở Béc-lin có một tập quán rất lạ: người ta dùng buổi tối muộn đến nỗi chẳng hiểu đấy là ăn tối sớm hay ăn trưa muộn nữa.

Elena Bour sực tỉnh, rời cặp mắt thỏ khỏi Ippolit và lê bước vào bếp.

-Bây giờ phải hành động, hành động và hành động! – Ostap nói và hạ giọng xuống nước bí mật tuyệt đối.

Hắn kéo tay Polesov.

-Bà ta có đáng tin cậy không? Không phản bội chứ?

Polesov chắp tay cung kính.

-Tín đồ chính trị của ông phải không?

-Thưa vâng, bà ấy luôn luôn làm theo tôi, - Polesov đáp.

-Hy vọng ông là người theo phái Kirill chú?

-Dạ, đúng thế, - Polesov đứng thẳng người lại.

-Nước Nga sẽ không quên ông! – Ostap nói rành rọt.

Ippolit tay cầm chiếc bánh ngọt, ngơ ngác nhìn Ostap, nhưng không dám ngăn hắn lại. Hắn đã bốc lên rồi. Ông vua mánh cảm thấy hứng khởi, bất chấp nguy cơ bị tố giác. Hắn đi đi lại lại trong phòng như một con hùm.

Elena Bour khệ nệ bưng cái ấm xamova từ trong bếp ra, bắt gặp hắn đang trong tâm trạng hứng khởi ấy. Ostap lịch sự bước lại gần mụ ta, đỡ lấy chiếc ấm đặt xuống bàn. Cái ấm reo ri ri. Ostap quyết định hành động.

-Thưa bà, - hắn nói, - chúng tôi sung sướng coi bà là đại diện…

Hắn chưa biết hắn sung sướng coi Elena Bour đại diện cho ai. Đành phải nhắc lại câu ấy. Trong số tất cả những câu nói xã giao quen thuộc của chế độ Sa Hoàng, hắn chợt nhớ mấy tiếng “xin đại nhân cho phép”. Nhưng cái này không hợp. Bởi vậy, hắn chuyển ý với nét mặt nghiêm trang.

-Bí mật nghiêm ngặt! Bí mật quốc gia!

Ostap chỉ Ippolit

-Theo bà, ông già khỏe mạnh này là ai? Thôi, bà đừng trả lời, bà không thể biết được đâu. Đấy là nhà tư tưởng khổng lồ, là cha đẻ của nền dân chủ Nga, là nhân vật kế cận Hoàng thượng.

Ippolit đứng dậy tạo vẻ oai vệ cho cái vóc dáng tuyệt đẹp của mình và bối rối nhìn quanh. Ông chẳng hiểu mô tê gì hế, chỉ biết qua kinh nghiệm, rằng Ostap Bender không bao giờ nói điều gì phi chủ đích, cho nên ông cứ ngậm miệng ăn tiền. Tất cả cảnh tượng này khiến cho Polesov run bắn người lên. Ông ta đứng đó, cằm hếch lên trần nhà, trong tư thế của một kẻ sẳn sàng tham gia lễ diễu binh, Elena Bour thì ngồi xuống ghế, sợ sệt nhìn Ostap.

-Người của ta ở thành phố này có nhiều không? – Ostap hỏi thẳng – Tinh thần họ ra sao?

-Khi có sự thiếu … - Polesov bắt đầu giải bày các tai họa của mình một cách lẫn lộn. Nào chuyện gã lao công bên nhà No5 đã gọi ông là đồ chó má, nào là chuyện không có cái bàn ren ba tấc tám, nào chuyện tàu điện, và vân vân.

-Thôi được! – Ostap ngắt lời – Bà Elena! Chúng tôi muốn nhờ bà bắt liên lạc với những nhân vật ưu tú của thành phố mà số phận độc ác đã đẩy họ vào hoạt động bí mật. Có thể mời ai đến họp ở nhà này?

-Có thể mời ai nhỉ? Makxim Petrovich và vợ ông ta chăng?

-Không mời vợ, - Ostap sửa lại, - Không đem theo vợ! Bà sẽ là trường hợp ngoại lệ duy nhất. Còn ai nữa?

Qua cuộc thảo luận mà Polesov hăng hái tham gia, họ đi đến kết luận rằng có thể mời Makxim Petrovich Chasushnikov, nguyên phát ngôn viên của viện Duma thành phố, hiện đã chui được vào hàng ngũ cán bộ Xô Viết, rồi đến ông chủ hợp tác xã “Đóng gói nhanh”là Diadep, rồi ông chủ nhiệm Ác-ten bánh vòng Odessa “Bánh vòng Matxcova” là Kisliaski và hai gã trẻ tuổi không rõ họ gì, nhưng hoàn toàn đáng tin cậy.

-Vậy tôi đề nghị mời họ đến đây hội ý ngay lập tức. Phải giữ bí mật tuyệt đối.

Polesov nói:

-Tôi chạy đến nhà Makxim Petrovich, Nikesha và Vladei, còn Elena thì nhờ bà chịu khó chạy sang tìm ông Didep và Kisliaski.
Polesov lao đi ngay. Mụ thầy bói say đắm nhìn Ippolit rồi cũng ra theo.

-Thế là nghĩa gì? – Ippolit hỏi.

-Nghĩa là ông là kẻ quá lạc hậu, - Ostap đáp.

-Tại sao?

-Tại vì… Xin lỗi hỏi ông một câu khốn nạn: Ông có bao nhiêu tiền?

-Tiền gì cơ?

-Tiền bạc. Tiền giấy, kể cả tiền làm bằng bạc và bằng đồng.

-Ba mươi lăm rúp.

-Và với số tiền ấy ông định trang trãi toàn bộ khoản chi tiêu cho dịch vụ của chúng ta ư?

Ippolit im lặng.

-Thế này nhé, thưa ông chủ ngớ ngẩn. Tôi chắc ông chẳng hiểu nỗi tôi đâu. Trong khoảng một giờ, ông hãy tạm sắm vai nhà tư tưởng khổng lồ, một nhân vật kế cận Hoàng thượng.

-Để làm gì?

-Tôi với ông cần có tư bản lưu động. Ngày mai tôi cưới vợ. Tôi không phải kẻ ăn mày. Tôi muốn mở tiệc chiêu đãi mừng cái ngày đáng ghi nhớ đó.

-Vậy tôi phải làm gì? – Ippolit rên rỉ.

-Ông phải câm lặng. Thỉnh thoảng phồng má lên cho có vẻ oai.

-Nhưng như thế là lừa dối.

-Ai nói vậy nhỉ? Bá tước Tonstoi nói thế chăng? Hay là Đác-uyn? Không. Tôi nghe câu ấy từ cửa miệng một kẻ mà tối hôm qua thôi còn định đang đêm đột nhập vào phòng góa phụ Gritsasueva để ăn cắp ghế. Xin ông đừng nghĩ ngợi cho tôi nhờ. Hãy im lặng và chớ quên phồng má đấy.

-Ngoắc vào cái chuyện tày đình này làm gì? Họ có thể tố giác ta.

-Ông khỏi lo. Tôi đã bắt mạch là trúng phóc. Sự việc sẽ diễn biến tuyệt đến nỗi chẳng ma nào hiểu gì hết. Thôi, uống trà đi.

Trong lúc hai thành viên hợp đồng uống và ăn, còn con vẹt nhăn hạt hướng dương, thì khách khứa lần lượt bước vào phòng.

Nikesha và Vladei cùng đến với Polesov. Lão thợ nguội không dám giới thiệu hai gã trẻ tuổi với nhà tư tưởng khổng lồ. Hai gã khép nép ngồi ở góc phòng và quan sát chị cha đẻ của nên dân chủ Nga xài món thịt bê nguội. Nikesha và Vladei là hai kẻ vụng về, ngớ ngẩn. Cả hai đều ngót nghét ba mươi. Chắc hai đứa đều thích thú vì được mời đến luận bàn việc đại sự.

Nguyên phát ngôn viên của nghị viện Duma thành phố, lão già Chasushnikov béo phục phịch, thì cứ lắc lắc mãi bàn tay của Ippolit Matveevich và nhìn vào mắt nhà tư tưởng khổng lồ. Dưới sự giám sát của Ostap, các vị cao niên của thành phố bắt đầu ôn lại quá khứ. Sau khi để họ hàn huyên chán chê, Ostap hướng về phía Chasushnikov.

-Trước kia ngài phục vụ ở trung đoàn nào?

Chasushnikov lúng túng:

-Tôi … tôi, nói chung là chưa tòng ngũ, bởi vì tôi được xã hội tín nhiệm, được đề cử vào…

-Ngài dòng dõi quý tộc chứ?

-Vâng, có thể ngày xưa…

-Tôi hy vọng ngày nay ngài vẫn là quý tộc. Hãy giữ vững tinh thần. Sẽ cần đến sự giúp đỡ của ngài. Polesov đã nói với ngài chưa? Nước ngoài đang giúp đỡ chúng ta. Phải nắm chắc dư luận xã hội. Tổ chức phải tuyệt đối bí mật. Chú ý!

Ostap bảo Polesov ngồi tách ra khỏi chỗ hai gã trẻ tuổi, đoạn nghiêm khắc hỏi:

-Hai anh trước đây ở trung đoàn cận vệ nào? Các anh sắp được phục vụ tổ quốc rồi. Hai anh thuộc dòng dõi quý tộc chứ? Hay lắm. Phương Tây sẽ viện trợ cho ta. Hãy giữ vững tinh thần. Các khoản đóng góp, nghĩa là tổ chức ấy, phải tuyệt đối giữ bí mật. Chú ý.

Ostap lại hứng lên. Công việc xem ra trót lọt. Sau khi được bà Elena Bour giới thiệu với chủ nhiệm Ác-ten “Đóng gói nhanh”. Ostap kéo ông ta vào một góc phòng, dặn ông ta giữ vững nhuệ khí. Hỏi ông ta ngày trước ở trung đoàn cận vệ nào, hứa hẹn ngoại bang sẽ giúp đỡ và bảo phải tuyệt đối giữ bí mật cho tổ quốc. Cảm giác đầu tiên của vi chủ nhiệm “Đóng gói nhanh” là nguyện vọng mau chóng rời khỏi căn nhà chứa đựng mưu mô xảo quyệt này. Ông ta cho rằng hãng của mình có thừa chững chạc và chắc ăn, chẳng dại gì chui đầu vào thứ áp-phe liều lĩnh này. Nhưng khi ngắm kỹ thân hình dẻo dai của Ostap, ông ta do dự và lưỡng lự: “Biết đâu đấy! … dẫu sao, tất cả còn lệ thuộc vào chỗ bàn tiệc sẽ được bày ra theo kiểu nào”

Cuộc hội ý thân mật trở nên sôi nổi sau bàn trà. Những người tham gia đều nuôi giữ ý đồ bí mật thiêng liêng và chỉ nhắc đến các tin tức mới nhất trong thành phố.

Người đến sau cùng là công dân Kisliaski, một kẻ hiện giờ là quý tộc và chưa từng bao giờ phục vụ ở một trung đoàn cận vệ, sau vài giờ trao đổi với Ostap đã nhận thức rõ tình thế.

- Hãy giữ vững tinh thần, - Ostap lên lớp cho lão già Kisliaski.

Lão già hứa hẹn. Ostap tiếp.

-Ngài là đại diện của tư bản tư nhân, ngài chớ nên làm ngơ trước tiếng rên siết của tổ quốc.

Kisliaski lộ vẻ buồn rầu thông cảm.

-Ngài có biết ai ngồi kia không? – Ostap chỉ tay về phía Ippolit Matveevich.

-Có chứ, - Kisliaski đáp – đó là ngài Ippolit.

-Đấy là, - Ostap trịnh trọng, - nhà tư tưởng khổng lồ, người cha của nền dân chủ Nga, một nhân vật kế cận Hoàng thượng.

“Ít nhất thì việc có mặt ở đây cũng xơi hai mươi năm tù như chơi”, Kisliaski nghĩ thầm, người run bắn lên, - “Mình tới đây làm cái quái gì nhỉ?”

-Liên minh bí mật giữa lưỡi kiếm và lưỡi cày – Ostap thì thào hăm dọa.

“Mười năm tù mất”, - ý nghĩ ấy lóe lên trong óc lão già.

-Ngài muốn bỏ về cũng được, nhưng xin cảnh cáo trước, tổ chức chúng tôi có thể vươn tay đến bất cứ nơi nào!

“Tao sẽ cho mày biết tay, đồ chó đẻ” - Ostap nghĩ thầm, - “Tao phải bắt mày chi ra ít nhất một trăm rúp mới được về”

Kisliaski hóa đá. Vừa chiều nay lão ta còn thưởng thức một bữa ăn ngon lành và bình yên. Có món gà hầm, súp đậu, chẳng biết gì về LIÊN MINH LƯỠI KIẾM VÀ LƯỠI CÀY đáng sợ. Lão đành ngồi lại vì mấy chữ “có thể vươn tay đến bất cứ nơi nào” đã gây nên một ấn tượng bất lợi cho lão.

-Thưa các vị - Ostap khai mạc phiên họp, - cuộc sống đặt ra những quy luật của nó, những quy luật nghiệt ngã. Tôi sẽ không nói về mục đích phiên họp của chúng ta, vì các vị đều đã rõ. Một mục đích thiêng liêng. Chúng ta nghe tiếng rên siết vang lên từ khắp mọi nơi. Cả đất nước rộng lớn của chúng ta đang kêu cứu. Chúng ta phải giơ tay giúp đỡ, và nhất định sẽ chìa tay giúp đỡ. Một số vị ngồi đây được ăn bánh mì phết bơ, một số vị khác đi kiếm ăn ở nước ngoài. Nhưng cả hai loại đều được ngủ trên những chiếc giường có chăn ấm nệm êm. Chỉ riêng những đứa trẻ đáng thương, những đứa trẻ mồ côi là không nơi nương tựa. Chúng là những bông hoa của đường phố, hay như những người vô sản lao động trí óc vẫn gọi, chúng là những nhành hoa trên đường nhựa, chúng đáng được hưởng một cuộc sống an nhàn. Chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, được hưởng một cuộc sống an nhàn. Chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, chúng ta phải giúp đỡ chúng. Và chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, chúng ta sẽ giúp đỡ chúng.

Bài diễn văn của ông vua mánh gây cho thính giả những cảm xúc khác nhau.

Polesov không hiểu nổi anh bạn mới của mình, - chàng sĩ quan cận vệ trẻ nữa.

“Bọn trẻ nào?” – Ông ta nghĩ – “Sao lại bọn trẻ nhỉ?”

Ippolit thì cố gắng không suy nghĩ gì hết. Ông đã mặc kệ từ lâu và chỉ ngồi im, thỉnh thoảng lại phồng má lên.

Elena Bour sụt sịt.

Nikesha và Vladei say sưa ngắm cái áo ghi-lê màu xanh của Ostap.

Chủ nhiệm “Đóng gói nhanh” hết sức hài lòng “Bày bàn được lắm” – lão nghĩ, - “bày bàn kiểu này thì mất tiền cũng đáng. Nếu thành công thì mình vẻ vang! Thất bại cũng chẳng hại gì đến tôi. Tôi chỉ giúp đỡ trẻ mồ côi thôi!”.

Chasushnikov treo đổi cái nhìn đấy ý nghĩa với Diadep và tiếp tục nặn các viên bi bánh mì cho chúng lăn trên bàn: ông ta bái phục tài ăn nói bí mật của báo cáo viên.

Kisliaski thì mừng rơn.

“Những ý kiến vàng ngọc” Lão nghĩ. Lão có cảm giác chưa bao giờ mình yêu quý bọn trẻ lang thang như bây giờ.

-Các đồng chí, - Ostap tiếp – Phải giúp đỡ ngay không chần chừ. Chúng ta phải cứu em nhỏ khỏi móng vuốt của phố phường, và chúng ta sẽ cứu được. Chúng ta sẽ giúp các em. Chúng ta sẽ nhớ kỹ rằng trẻ con là những bông hoa của cuộc sống. Tôi mời các đồng chí đóng góp ngay bây giờ để kịp giúp đỡ các em, chỉ giúp đỡ các em thôi, chứ không giúp ai khác. Các đồng chí hiểu ý tôi chứ?

Ostap rút trong túi quần ra một quyển hóa đơn.

-Đề nghị các vị đóng góp. Ngài Ippolit sẽ xác nhận thẩm quyền của tôi.

Ippolit phồng mà và cúi đầu. Lúc này thì ngay đến hai gã Nikesha và Vladei ngớ ngẩn, cũng như ông thợ nguội trí thức đều hiểu rõ ngụ ý bí ẩn của Ostap.

-Kính lão đắc thọ, thưa các vị - Ostap nói – ta hãy bắt đầu từ này Makxim Petrovich đáng kính.

Makxim Petrovich ngọ ngoạy và cố đóng góp ba chục rúp.

-Khi nào tình hình khá hơn, tôi sẽ đưa thêm! – lão tuyên bố.

-Tình hình sắp khá hơn rồi - Ostap nói – Nhưng kể ra điều này không liên quan gì đến bọn trẻ mà bây giờ tôi đang đại diện.

Nikesha và Vladei góp tám rúp.

-Ít thế, hai đồng chí.

Hai đồng chí đỏ mặt.

Polesov chạy về nhà và đem đến năm mươi rúp.

-Tuyệt lắm, kỵ sĩ ạ! – Ostap khen – đối với một kỵ sĩ độc thân có mô tơ, lần thứ nhất thế này là đủ. Giới thương gia sẽ đóng góp sao đây?

Diadep và Kisliaski cò kè hồi lâu và so bì kẻ ít người nhiều.

Ostap nghiêm mặt.

-Trước mặt ngài Ippolit đây mà xử xự như thế là thiếu tế nhị.

Ippolit gật đầu. Hai thương gia đóng góp mỗi vị hai trăm rúp để cứu giúp trẻ em.

-Xong – Ostap thốt lên – cả thảy bốn trăm tám mươi tám rúp! Chà! Thiếu mười hai rúp nữa là được con số chẵn.

Elena Bour ngồi im từ nãy liền đứng dậy, đi sang phòng nhủ và cầm chiếc xắc đến giao đúng mười hai rúp cho tròn con số tổng cộng.

Phần còn lại của phiên họp không có nội dung rõ rệt và thiếu phần long trọng. Ostap thì tỉnh dần. Elena Bour lại mê mẩn hơn. Khách khứa lục tục ra về sau khi kính cẩn chia tay với những người tổ chức.

-Về ngày họp sau, các vị sẽ được thông báo riêng – Ostap nói lúc chia tay – bí mật tuyệt đối. Sự nghiệp cứu giúp trẻ em phải là bí mật tuyệt đối… Mà khỏi phải nói nhiều, điều đó liên quan trực tiếp đến quyền lợi riêng của các vị đấy.

Nghe mấy lời đó, Kisliaski định góp thêm năm chục rúp nữa để khỏi phải đến dự bất cứ cuộc họp nào. Lão phải cố lắm mới kềm chế được ý muốn sôi sục đó.

-Thôi, kết thúc ở đây – Ostap nói – Ngài Ippolit, tôi hy vọng ngài sẽ không khước từ lòng mến khách của bà Elena và sẽ ngủ với bà. Vả lại, để đảm bảo bí mật, tôi với ngài nên tạm xa nhau một đêm. Tôi đi đây.

Ippolit tuyệt vọng nháy nháy mắt với Ostap, nhưng hắn làm ra vẻ không để ý, cứ bước thẳng ra sân.

Đi được một quảng, hắn sực nhớ trong túi hắn có năm trăm rúp hắn vừa kiếm được bằng sức lao động chân chính.

-Ê xe! – Ostap gọi xà ích – đền tiệm ăn “Feniks”

-Được! – người đánh xe trả lời.

Ông ta thong thả chở Ostap đến cái tiệm ăn đã đóng cửa.

-Sao? Đóng cửa rồi à?

-Nghỉ lễ mà.

-Ô, vớ vẩn! Có tiền mà chẳng có chỗ chơi! Vậy hãy đưa tối đến phố Plekhanop. Bác biết đường chứ?

Ostap quyết định đến nhà vợ chưa cưới của mình.

-Thế ngày trước gọi là phố gì ạ? – Người đánh xe hỏi.

-Không biết.

-Thế thì đi đường nào? Tôi cũng chả biết đâu.

Chiếc xe lăn lọc cọc chừng một tiếng rưỡi giữa thành phố vắng ngắt, vừa đi vừa hỏi đường những người gác đêm và các chiến sĩ công an. Một anh công an làm bộ quan trọng hồi lâu, mới chịu nói rằng phố Plekhanop chính là phố Gubernator ngày trước.

-Nào, đi Gubernator! Tôi biết phố ấy lắm. Tôi đã chạy xe ở đó hai mươi bốn năm liên tục.

-Thì đi đi!

Họ đến phố Gubernator cũ nhưng hóa ra bây giờ nó là phố Các-mác, chứ không phải Plekhanop.

Ostap tức giận lại bảo xe đi tìm phố Plekhanop lần nữa. Nhưng vẫn không kết quả.

Ánh bình minh nhợt nhạt chiếu vào khuôn mặt kẻ đau khổ sẵn tiền mà không có chỗ giải trí.

-Chở ta đến khách sạn “Sorbonna”! – Hắn quát – Cũng đòi làm xà ích! Có cái phố Plekhanop cũng đếch biết.

--- o 0 o ---
Ngôi nhà của góa phụ Gritsasueva sáng trưng. Ngồi chủ bàn tiệc là ông vua cơ – con trai của vị công dân quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ. Hắn lịch thiệp và ngà ngà say. Khách khứa chuyện trò rôm rả.

Cô dâu không còn trẻ nữa. Ít ra cũng không dưới ba mươi lăm tuổi. Thiên nhiên ban phát cho chị ta rất hào phóng. Nào bộ ngực đồ sộ, nào cái mũi hình lưỡi rìu, nào hai gò má phúng phính và cái gáy thật bự. Chị ta say mê và sợ hãi người chồng mới. Bởi vậy chị ta không gọi hắn bằng tên, vả lại chị ta cũng không biết tên hắn là gì, mà cứ gọi bằng họ: Đồng chí Bender.

Ippolit Matveevich lại thượng lên chiếc ghế thiêng liêng của mình. Suốt tiệc cưới, ông cứ nhún nha nhún nhẩy trên ghế để thử vật cứng dưới nệm ghế. Đôi khi ông cảm thấy có cái gì cưng cứng thật. Lúc ấy ông thích tất cả quan khách, và ông bắt đầu hét tướng lên “Đắng quá! Đắng quá” (1)

Ostap thì luôn miệng chuyện trò, chúc rượu. Mọi người nâng cốc chúc mừng nền giáo dục nhân dân và công trình thủy lợi của Uzobekistan. Sau đó khách khứa lục tục ra về. Ippolit đứng lại ở bên cửa sổ và nói nhỏ với Ostap.

-Anh khẩn trương lên nhé. Chính nó rồi đấy.

-Ông hám giàu quá – Ostap say rượu, trả lời – cứ về khách sạn đợi tôi. Đừng đi đâu cả. Tôi có thể về bất cứ lúc nào. Trả tiền khách sạn trước đi. Chuẩn bị sẳn sàng nhổ neo. Amen! Tạm biệt ngài thống chế! Hãy chúc tôi ngủ ngon đi chứ!

Ippolit chúc Ostap ngon giấc, đoạn về khách sạn “Sorbonna” để mà hồi hộp.

Năm giờ sáng thì Ostap xách chiếc ghế về đến nơi. Ippolit mừng rơn. Ostap đặt cái ghế giữa phòng và ngồi xuống.

-Làm thế nào mà lấy được nó vậy? – Cuối cùng Ippolit hỏi?

-Rất đơn giản, người trong nhà mà lại. Góa phụ đang ngủ say và nằm mơ. Đánh thức dậy thì thương “Chớ đánh thức nàng vào lúc rạng đông”. Than ôi, đành phải để lại mấy chữ dành cho người yêu: “Anh đi Novokhopersk báo cáo. Đừng chờ anh về ăn trưa. Suslik (2) của em”. Chiếc ghế này tôi lấy ở phòng ăn. Sáng sớm tàu điện chưa chạy, dọc đường tôi vẫn ngồi nghỉ trên cái ghế này.

Ippolit reo mừng đâm bổ lại chồ chiếc ghế.

-Khẽ chứ, - Ostap nói – phải hành động thật nhẹ nhàng.

Hắn rút trong túi ra một cái kìm dẹt, và công việc bắt đầu.

-Ông khóa cửa lại chưa? – Ostap hỏi.

Hắn gạt Ippolit nôn nóng sang một bên, cẩn thận mở mặt ghế, cố không làm rách miếng vải hoa ăng-lê.

-Loại vải này bây giờ đào đâu ra, phải giữ gìn nó. Biết làm thế nào, đói hàng hóa mà lại.

Tất cả những cái đó khiến Ippolit nóng ruột vô cùng.

-Xong rồi, - Ostap nói khẽ.

Hắn khẽ lật tấm vải bọc ra rồi thọc cả hai tay vào giữa các lò xo. Trán hắn nhăn lại.

-Sao? – Ippolit nhắc đi nhắc lại câu hỏi theo âm sắc khác nhau – Sao? Sao?

-Sao với chả sáo, - Ostap bực bội đáp – xác xuất thành công một trên mười một. Và lần này…

Hắn lại thọc tay tìm tiếp, rồi kết luận:

-Và lần này thành công chưa đến với ta.

Hắn đứng thẳng dậy và phủi hai khuỷu tay. Ippolit vồ lấy chiếc ghế.

Không thấy kim cương. Hai tay Ippolit thõng thượt. Nhưng Ostap vẫn ung dung.

-Bây giờ khả năng thành công của ta đã tăng lên.

Hắn đi vài bước trong phòng.

-Không hề gì! Cái ghế này làm cho góa phụ thiệt hòi hơn chúng mình.

Ostap rút từ trong túi quần ra một cái vòng vàng, nửa tá thìa vàng và một cái lọc bã trà bằng bạc.

Vì đau khổ, Ippolit thậm chí không ngờ rằng ông đã trở thành tòng phạm trong một vụ ăn trộm thông thường.

-Kể ra hơi đểu – Ostap nhận định – nhưng ông phải thừa nhận rằng tôi không thể từ giã người đàn bà yêu quý mà không để lại cho nàng chút kỷ niệm nào. Nhưng thôi. Đừng phí thời gian nữa. Công việc mới chỉ mở đầu. Phần kết thúc ở Matxcova kia. Mà bảo tàng đồ gỗ thì không dễ tính như góa phụ đâu. Sẽ khó hơn đấy.

Hai thành viên của hợp đồng nhét các mảnh ghế vào gầm giường, điểm lại số tiền (cùng với khoản quyên góp cứu giúp trẻ mồ côi, được cả thảy năm trăm ba mươi lăm rúp), rồi ra ga đáp tàu đi Matxcova.

Họ phải thuê xe ngựa đi đến tận đầu kia của thành phố.

Ở đường Koperativ, họ thấy Polesov đang cắm đầu cắm cổ chạy trên vỉa hè như một con báo bị săn đuổi. Rượt theo sau là tay lao công nhà No5 phố Perleshin. Đã quành vào một góc phố, hai thành viên hợp đồng còn nhìn thấy tay lao công đuổi kịp Polesov và bắt đầu đấm ông ta túi bụi. Polesov kêu ầm ĩ “cứu tôi với!”“Đồ lưu manh”.

Ostap và Ippolit ngồi trong nhà xí cho đến lúc tàu chạy vì sợ vợ mới cưới của Ostap bắt gặp.

Con tàu đưa hai người bạn đến trung tâm ồn ào. Cả hai dán mắt vào cửa sổ.

Các toa tàu lướt qua khu vực ngoại ô Gusisa.

Đột nhiên Ostap chụp tay Ippolit, nói rối rít:

-Xem kìa, xem kìa! Đấy, đấy, thằng cha Alkhen đấy, đồ chó đẻ!...

Ippolit nhìn xuống phía dưới. Ven đường tàu, một gã trẻ tuổi rậm râu đang kéo một chiếc xe nhỏ, trên đặt cây đàn hoàng cầm và năm bộ khung cửa gỗ. Người công dân mặc áo màu lông chuột bẽn la bẽn lẽn.

Mặt trời xuyên thủng các đám mây đen. Cây thánh giá trên nóc nhà thờ lấp lánh.

Ostap vừa cười hô hố vừa thò đầu ra ngoài cửa sổ, hét to:

-Pasha! Ra chợ trời đấy hả?

Pasha Emilevich ngẩng lên, nhưng chỉ thấy cái đầu sau của toa tàu cuối cùng và càng rảo bước hơn.

-Ông thấy chưa? Ostap vui vẻ hỏi – Đẹp ơi là đẹp! Người ta làm ăn thế đấy!

Ostap vỗ vào lưng ông bạn đường buồn rầu.

- Không sao! Cha nội ơi! Chớ có thất vọng! Phiên họp tiếp tục. Tối mai chúng mình đã ở Matxcova rồi!

(1) Theo phong tục Nga, khi khách kêu như vậy, cô dâu và chú rể hôn nhau.
(2)Suslik trong tiếng Nga nghĩa là con chuột vàng.
Hết chương 14, xem tiếp chương 15 “GIỮA BIỂN GHẾ”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
PHẦN THỨ HAI
Ở MATXCOVA
CHƯƠNG 15
GIỮA BIỂN GHẾ

Ngành thống kê biết hết mọi điều.

Người ta đã thống kê chính xác diện tích đất cày ở Liên Xô, có chia ra từng loại đất đen, đất sét pha và đất vàng. Mọi công dân của thành phố của cả hai giới đều được ghi chép rõ trong những quyển sách dày mà Ippolit Matveevich Vorobjaninov biết rất rành – đó là các quyển sổ hộ khẩu. Có số liệu thống kê một người công dân của nước cộng hòa ăn trung bình bao nhiêu thực phẩm trong một năm. Có số liệu thống kê cho biết mỗi người uống trung bình bao nhiêu lít Voska và với ngần nào món nhắm. Người ta cũng biết trong nước có bao nhiêu diễn viên ba-lê, thợ săn, máy tiện Revolve, bao nhiêu chó các giống, bao nhiêu xe đạp, đài kỷ niệm, bao nhiêu cô gái, đèn biển và máy khâu.

Có bao sức sống, nhiệt tình, ham muốn tư tưởng nhìn chúng ta từ các biểu bảng thống kê!

Người công dân hai má hồng hào, khăn ăn cài ngược, đang ngồi bên bàn say sưa món súp nghi ngút khói ấy là ai? Xung quanh anh ta có cả một đàn bò tí xíu nằm phủ phục. Những con lợn mỡ màng tụ vào một góc biểu bảng. Trong hồ nước thống kê bơi lội tung tăng những chú cá tầm, cá lo-ta và cá palecus. Những ả gà mái đậu trên vai, trên đầu và trên tay vị công dân ấy. Những chú ngỗng, vịt và gà tây, bay trên các đám mây có cánh. Hai con thỏ nấp dưới gầm bàn. Ở chân trời nổi lên các Kim Tự Tháp và vườn treo Babilon nặn bằng bánh mì. Pháo đài mứt có dòng sông sữa bao quanh. Trái dưa chuột to như tháp Bidanti đứng sừng sững ở chân trời. Rượu vang, rượu mạnh và bia hùng dũng diễu binh trên các chiến lũy đắp bằng muối và ớt. Các chai nước suối, nước chanh chen nhau lộn xộn dọc tuyến hậu bị.

Người công dân má đỏ hây hây ấy là ai? Là kẻ háu ăn, ưa nhậu hay hảo ngọt? Gargantua hay vua Ba Tư? Lực sĩ Ioss? Anh lính Áo Đỏ huyền thoại? Hay Lunkull?

Không, không phải Lukull. Đó là Ivan Ivanovich Sidorov hoặc Sidoi Sidorovich Ivanop (1), một người dân trung bình trong toàn bộ cuộc đời mình ăn hết tất cả số thực phẩm trung bình ghi trong biểu bảng thống kê. Đó là người tiêu dùng các loại clori và vitamin theo định mức, là người sống độc thân, bốn mươi tuổi, làm việc tại cửa hàng bán tranh hoặc bán vải.

Bạn đừng hòng né tránh ngành thống kê. Nó có số liệu chính xác chẳng những về số nha sĩ, thợ làm xúc xích, ống tiêm, lao công, đạo diễn điện ảnh, gái điếm, mái tranh, góa phụ, xà ích và chuông, mà nó còn biết rõ trong nước có bao nhiêu nhân viên thống kê.

Vậy mà có một thứ nó không biết.

Nó không biết ở Liên Xô có bao nhiêu chiếc ghế.

Ghế thì nhiều vô kể.

Đợt thống kê dân số gần đây nhất đã cho biết tổng số dân của nước công hòa trong liên bang là một trăm bốn mươi ba triệu người. Nếu gạt ra chín mươi triệu nông dân, là những người thích ngồi các thứ không phải là ghế (chẳng hạn ở phía đông họ ngồi trên thảm hoặc phản), thì dẫu sao cũng còn năm chục triệu người mà trong sinh hoạt gia đình của họ cái ghế thuộc loại vật dụng tối cần thiết. Nếu trừ hao cả sai số trong tính toán và thói quen của một số công dân Liên Xô ngồi giữa hai cái ghế, thì sau khi giảm hẳn một nửa tổng số để phòng xa, ta vẫn còn thấy trong nước phải có ít nhất hai mươi sáu triệu rưỡi chiếc ghế. Để chính xác hơn, ta bỏ hẳn sáu triệu rưỡi đi. Hai mươi triệu còn lại sẽ là con số tối thiểu.

Giữa cái biển ghế được làm bằng gỗ hồ đào, gỗ sồi, gỗ facaranda, gỗ fracinus, gỗ hồng sắc và gỗ bạch dương kareli. Giữa cái biển ghế làm bằng gỗ thông, gỗ tùng ấy, hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của chúng ta phải tìm cho ra chiếc ghế gỗ hồ đào chân cong làm theo kiểu Hambx chứa đựng trong cái bụng bọc vải hoa ăng-lê của mình cả kho báu của madam Petukhova.

Hai thành viên hợp đồng nằm ở tầng trên xà còn ngủ say trong lúc đoàn tàu thận trọng vượt qua sông Oka, rồi lao nhanh về ngoại ô Matxcova.

(1)Hai tên họ phổ biến nhất ở Nga.
Hết chương 15, xem tiếp chương 16 “NHÀ TẬP THỂ MANG TÊN
TU SĨ BERTOL’D SHVARTSA”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 16
NHÀ TẬP THỂ MANG TÊN TU SĨ BERTOL’D SHVARTSA

Ippolit Matveevich và Ostap ép người vào nhau đứng bên cửa sổ mở rộng của toa cứng và chăm chú nhìn đàn bò thong thả rời khỏi đường tàu, nhìn những cây thông, những ngôi nhà gỗ ở ngoại ô.

Tất cả những câu chuyện tiếu lâm đã được kể hết ở dọc đường. Tờ “Sự thật ở Stargorot” ra hôm thứ ba đã được đọc đến tận mục quảng cáo, thông báo và đã thấm các vết bơ loang lỗ. Tất cả những quả trứng, con gà và trái cây đã nằm gọn trong dạ dày.

Còn phần đường mệt nhất là khoảng thời gian sắp tới Matxcova.

Từ các cánh rừng thưa, những ngôi nhà nhỉ ở ngoại ô chạy vội về phía đoàn tàu. Trong số ấy có những lâu đài bằng gỗ lấp lánh cửa kính hàng hiên và những cái mái tôn mới sơn. Có cả những ngôi nhà đơn giản dựng bằng gỗ cây, cửa sổ vuông vuông nhỏ xíu, những cạm bẫy thật sự đối với người đi nghỉ ở ngoại ô.

Trong lúc hành khách với vẻ mặt sành sỏi đang ngắm đường chân trời và điểm lại trong ký ức những diễn biến của trận đánh gần Kalka, kể cho nhau nghe quá khứ và hiện tại ở Matxcova thì Ippolit Matveevich ra sức hình dung viện bảo tàng đồ gỗ. Ông tưởng tượng viện bảo tàng là một hành lang dài hàng cây số, với những chiếc ghế kê thành dãy hai bên tường. Ippolit thấy mình đang đi nhanh giữa hai dãy ghế ấy.

-Chưa biết ở viện bảo tàng đồ gỗ sẽ ra sao đây? Liệu có xong không? – Ông lo ngại nói.

-Ông đô thống, phải đưa ông đi bệnh viện chạy điện mất thôi. Đừng có lên cơn động kinh quá sớm. Nếu ông không thể không lo lắng, thì ông hãy để cái lo trong bụng thôi.

Đoàn tàu nẩy lên các khúc ghi. Các cột đèn tín hiệu nhìn nó há hốc miệng. Số đường ray mỗi lúc một nhiều thêm. Cảm thấy sắp tới một đầu mối đường sắt khổng lồ. Cỏ biến mất, chỉ còn thấy xỉ. Những đầu máy dồn tàu kéo còi ầm ĩ. Các công nhân bẻ ghi huýt còi. Tiếng ầm ầm tăng lên. Đoàn tàu chạy vào đoạn đường giữa hai dãy toa rỗng và lượn vòng như một cái cửa quay, bắt đầu điểm lại từng toa xe.

Các con đường nhiều gấp đôi.

Đoàn tàu chạy ra khỏi hành lang giữa hai dãy toa rỗng. Ánh nắng chan hòa. Những chiếc đèn ghi chạy tán loạn sát mặt đất, trông như những cái rìu nhỏ. Khói xả mù mịt. Đầu tàu thở hồng hộc, xì ra một cụm khói trắng như tuyết. Có tiếng quát to ở khúc đường quành. Các công nhân đề-pô đang kéo đầu máy về một ngăn riêng.

Bộ xương của đoàn tàu kêu răng rắc vì phanh gấp. Tất cả mọi vật rung chuyển, và Ippolit tưởng chừng mình lạc vào vương quốc của bệnh đau răng. Đoàn tàu đỗ lại cạnh tuyến ke rải nhựa.

Đến Matxcova rồi. Đây là ga Rizan, ga mới nhất trong số tất cả các nhà ga ở Matxcova.

Không một ga nào trong số tám ga còn lại của Matxcova có những dãy nhà cao rộng như ở ga Rizan này. Toàn bộ ga Iaroslap với những chóp nhọn giả Nga, với những quốc huy hình con gà của nó, có thể nằm lọt thỏm trong cái tiệm ăn khổng lồ của ga Rizan này.

Các nhà ga của Matxcova là cửa ngỏ của thành phố. Mỗi ngày chúng đón vào và tiễn ra ba mươi ngàn hành khách. Đi vào Matxcova qua ga Alechsandrop là người ngoại quốc đi dép đế cao su, mặc quần áo đánh gôn (quần thể thao và những đôi tất len dày). Từ ga Kursk đi vào Matxcova là người dân Capkaz đội mũ lông cừu có nhiều lỗ thủng thông gió và người vùng sông Vonga râu cứng như rễ cây. Từ ga Oktiabro nhảy ra anh cán bộ nửa quan trọng nửa không, tay xách chiếc cặp lạ lùng bằng da lợn. Anh ta từ Leningrat tới thủ đô để lo chuyện liên hệ, phối hợp công tác và nắm tình hình cụ thể. Các đại biểu của Kiep và Odecxa thì tới Matxcova qua ga Driansk. Mới đến ga sa mạc Tikhonop, những người dân Kiep đã bắt đầu mỉm cười miệt thị. Họ hiểu rất rõ rằng Kresatik là đường phố tuyệt diệu nhất trên trái đất. Những người dân Odecxa xách theo những cái lẵng và những cái hộp đựng cá nục xông khói. Họ cũng biết đâu là đường phố tuyệt diệu nhất hành tinh. Nhưng dĩ nhiên đó không phải là phố Kresatik, mà là phố Lassal, trước kia có tên phố Deribas. Từ Saratop, Atkarsk, Tampop, Rtitsep và Kozlop, người ta đến Matxcova theo ngã nhà ga Pavelets. Số khách tới thủ đô qua ga Savelop là ít hơn cả. Đó là những người thợ làm đế giày ở Taldom, những người dân thành phố Dmitrop, công nhân xưởng thủ công vùng Iakhrom hoặc những người sống cả mùa đông lẫn mùa hè ở ga Khlepnikovo ngoại ô. Từ đó đến Matxcova chẳng xa xôi gì. Có xa nhất thì cũng chỉ một trăm ba mươi vooc-xơ-ta (1). Đến thủ đô qua ga Iaroslap là những người từ Vladivostok, Khabaropsk, Chita, từ các thành phố xa và lớn.

Tuy nhiên, lạ nhất là các hành khách ở ga Rizan. Đấy là những người Uzobech đội khăn xếp trắng, mặc áo thụng hoa, những người Tadzik, Turmeni, Khivina và Bukhar, nơi quanh năm suốt tháng chan hòa ánh nắng mặt trời.

Hai nhân vật của chúng ta vất vả len ra đến cửa ga và thấy mình đang đứng trên quảng trường Kalanstrep. Bên phải họ nổi lên những quốc huy hình con gà của ga Iaroslap. Ngay trước mặt họ là nhà ga Oktiabro được quét sơn hai màu. Chiếc đồng hồ của nó chỉ mười giờ năm phút. Còn đồng hồ của ga Iaroslap chỉ đúng mười giờ. Nếu ngó về phía cái đồng hồ màu xanh thẩm, vẽ huy hiệu Zodiak của ga Rizan, thì hành khách sẽ thấy mới có mười giờ kém năm.

-Thật tiện lợi cho các cuộc hẹn hò! - Ostap nói – bao giờ cũng có mười phút trừ hao.

Gã xà ích đánh môi phát ra tiếng hôn. Chiếc xe ngựa chạy bên dưới một chiếc cầu, và trước mắt hai người bạn đường trãi ra toàn cảnh hùng vĩ của thủ đô.

-Này, ta đi đâu thế? – Ippolit hỏi.

-Đến chổ những người tốt – Ostap đáp - ở Matxcova có rất nhiều người tốt. Và tất cả đều là người quen của tôi.

-Ta ở lại chổ họ được chứ?

-Đó là khu tập thể. Nếu không có nhà người này thì ở nhà người kia. Thế nào cũng tìm được chổ.

Cảnh chợ Okhot nhốn nháo. Các vị tiểu thương không có môn bài, đội các mẹt hàng rong chạy tán loạn như vịt. Đằng sau họ, một chiến sĩ công an thong thả bước. Bọn trẻ mồ côi tụ tập cạnh một thùng nhựa đường và đang thưởng thức mùi nhựa sôi.

Chiếc xe chạy ra quảng trường Arbat, dọc theo đại lộ Prechisten, quẹo phải, rồi dổ lại ở hẻm Sivev Vraznek.

-Nhà gì đây thế? – Ippolit hỏi.

Ostap nhìn ngôi nhà nhỏ màu hồng có tầng nóc, đáp:

-Nhà tập thể của sinh viên khoa hóa mang tên tu sĩ Bertol’d Shvartsa.

-Tu sĩ ư?

-Không, nói đùa tí chơi đấy thôi. Mang tên Semashko.

Cũng như mọi nhà tập thể sinh viên bình thường ở Matxcova, ngôi nhà của các sinh viên khoa Hóa cũng đã từ lâu chật ních những người bà con họ hàng khá xa với môn hóa học. Số lượng sinh viên biến động luôn luôn. Một số đã tốt nghiệp, đi nhận công tác ở các địa phương. Một số bị buộc thôi học vì bị điểm kém. Chính số sinh viên này mỗi năm một đông thêm, tạo nên trong ngôi nhà màu hồng này một thứ hội không ra hội, phường chẳng ra phường. Những sinh viên mới cố gắng chui vào nhà tập thể này đến mấy cũng chỉ uổng công vô ích. Những nhà siêu hóa học tỏ ra có những sáng kiến lạ thường và đánh bật được mọi đợt tấn công. Người ta đành bỏ mặc ngôi nhà này. Nó trở thành một thứ nhà hoang và biến mất khỏi mọi kế hoạch của Ban Quản lý nhà đất Matxcova. Dường như không có ngôi nhà ấy nữa. Trong khi nó vẫn sừng sững ở đấy, và có không ít người sống ở đấy.

Hai thành viên hợp đồng theo cầu thang lên tầng hai và sa vào một hành lang tối như bưng.

-Ánh sáng và không khí – Ostap nhận xét.

Bỗng trong bóng tối, ngay cạnh khuỷu tay của Ippolit, vang lên tiếng ngáy của ai đó.

-Đừng sợ, - Ostap nói – không phải ở ngoài hành lang đâu. Ở sau vách đấy. Vách gỗ, theo như môn vật lý chứng minh, là vật truyền tiếng động cực tốt. Cẩn thận! Ông hãy túm lấy áo tôi! Chổ này phải có một cái két sắt mới đúng.

Tiếng “ối” do Ippolit phát ra vì vấp nhực vào một góc nhọn bằng sắt chứng tỏ rằng quả thật ở chổ này có một cái tủ sắt.

-Đau lắm à? – Ostap hỏi – Như thế chưa ăn thua gì. Đó mới là nỗi đau đơn về thể xác. Ở đây còn vô số nỗi đau đớn về tinh thần kia – nhớ lại đã sởn gáy. Ngay cạnh đây có treo một bộ xương, là tài sản của thằng cha sinh viên Ivanopulo. Hắn mua bộ xương ở Sukharevoa, nhưng không dám treo trong phòng. Nghĩa là khách tới đây trước hết vấp phải cái két sắt, sau đó sẽ cụng trán vào bộ xương khô. Đám đàn bà chửa rất khó chịu về món đó.

Theo cầu thang xoáy trôn ốc, hai thành viên hợp đồng đi lên tầng nóc. Một căn phòng rộng ở trên tầng nóc được ngăn bằng ván thành năm ngăn, mỗi ngăn rộng hai ác-sin (2). Các ngăn ấy giống hệt các hộp bút, chỉ khác là ở đây ngoài bút chì, bút mực còn có người và bếp dầu hỏa.

Ostap dừng lại ở ngoài cửa ngăn giữa, hỏi khẽ:

-Câu có nhà không, Kolia?

Đáp lại câu hỏi ấy, cả năm hộp bút đều rậm rịch, lao xao:

-Có đấy, - Tiếng trả lời vang lên sau cánh cửa.

Khách khứa lại mò đến nhà thằng ngốc sớm thế! – Một giọng nói phụ nữ thì thầm ở hộp bút cuối cùng bên trái.

-Để người ta ngủ với chứ! Hộp bút No2 lầu bầu.

Hộp bút thứ ba thì mừng rỡ:

-Công an đến thăm thằng cha Kolia về khoản đánh cắp của kính hôm qua đấy.

Hộp bút thứ năm không nói gì. Ở đấy chỉ nghe tiếng reo của bếp dầu hỏa và tiếng người hôn nhau.

Ostap dùng chân đẩy cửa. Toàn bộ công trình bằng ván rung chuyển, và hai thành viên lọt vào ngăn – hộp của Kolia.

Cảnh tượng đập vào mắt Ostap thật đáng sợ, tuy bề ngoài là vô tội. Trong phòng, về đồ đạc chỉ có một cái đệm sọc đỏ, kê trên bốn hòn gạch. Đồ đạc của Kolia thì hắn biết tỏng từ lâu. Bản thân Kolia ngồi thu cả hai chân lên đệm cũng không khiến Ostap ngạc nhiên. Nhưng ngồi bên cạnh anh ta lại là thiên thần, thành thử Ostap lập tức trở nên ngán ngẫm. Những cô gái loại này không bao giờ là người quen đến liên hệ công việc – để là người như vậy, họ có đôi mắt quá xanh và cái cổ quá trắng. Đây là các cô nhân tình, và tệ hơn nữa, là các bà vợ, mà lại là vợ yêu mới chết chứ. Và quả vậy, Kolia gọi thiên thần ấy là Lida, và đang đùa giỡn thân mật với cô ta.

Ippolit Matveevich bỏ chiếc mũ quả dưa của mình ra. Ostap gọi Kolia ra hành lang. Hai người thì thầm với nhau hồi lâu.

-Sáng nay trời đẹp tuyệt, tiểu thư ạ, - Ippolit nói.

Tiểu thư mắt xanh cười và nói một điều chẳng có liên quan gì tới nhận xét vừa rồi của Ippolit: cô ta bảo ngăn bên cạnh toàn là mấy thằng cha ngớ ngẩn.

-Họ cố ý đốt bếp dầu hỏa để người ta khỏi nghe tiếng họ hôn hít nhau. Nhưng ông thấy đấy, làm như thế là ngu. Tất cả chúng ta đều nghe rõ. Chỉ riêng họ là không nghe thấy vì bị tiếng đèn reo át đi. Nếu ông muốn, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy. Ông hãy nghe này.

Rồi cô vợ của Kolia, người đã nắm vững mọi bí mật của bếp dầu hỏa, nói to:

-Này bọn ngốc ơi!

Bên kia ván, chỉ nghe thấy tiếng réo phừng phừng của bếp dầu hỏa và tiếng hôn hít.

-Ông thấy chưa? Họ chả nghe thấy gì hết. Đúng là một lũ ngu ngốc và mắc bệnh tâm thần. Ông thấy chưa?

-Thấy rồi, - Ippolit nói.

-Còn vợ chồng tôi chả dùng bếp dầu hỏa. Để làm gì kia chứ. Chúng tôi ăn ở nhà tập thể chay tịnh, tuy rằng tôi phản đối cái lối kiêng cá thịt. Nhưng hồi cưới tôi, anh Kolia mơ ước rằng chúng tôi sẽ cùng nhau đi ăn tập thể. Thế là bây giờ chúng tôi ăn chay ở đó. Tôi đặc biệt thích ăn thịt. Nhưng ở đấy người ta lại dùng mì ống giả làm cốt-lết. Có điều ông đừng nói gì với Kolia nhé…

Lúc ấy Kolia và Ostap quay vào

-Thôi, nếu nhất thiết không ở chổ cậu được thì bọn này lại chổ Pantelei vậy.

-Đúng đấy, hai bạn ạ! – Kolia nói to – Hai bạn xuống chổ Ivanopulo mà ở.

-Hai bạn hãy đến nhà chúng tôi chơi luôn nhé; - vợ Kolia nói, - chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp.

-Lại còn mời khách đến nhà chơi nữa chứ! - những người ở ngăn cuối cùng bực tức. – Làm như họ ít khách lắm không bằng.

-Các người ngu lắm, các người mắc bệnh tâm thần cả rồi, đừng dính mũi vào việc nhà khác. – Vợ Kolia nói không hề cao giọng.

-Anh nghe rõ chưa, anh Ivan Andreevich, - ở ngăn cuối cùng vang lên tiếng nói, - người ta làm nhục vợ anh mà anh cứ làm thinh.

Các nhà bình luận vô hình ở các ngăn khác cũng lên tiếng. Cuộc đấu khẩu nổ ra. Hai nhân vật của chúng ta đi xuống phía dưới, xuống phòng Ivanopulo.

Anh chàng sinh viên này không có nhà. Ippolit bật diêm, một mẫu giấy gài ở cửa: “Tôi sẽ về nhà sớm nhất là 9 giờ, Pantelei”

-Chả sao, - Ostap nói – Tôi biết chổ cất chìa khóa.

Hắn lần mò dưới gầm chiếc két sắt, lấy được chìa khóa và mở cửa.

Phòng của sinh viên Ivanopulo Pantelei cũng có kích thước hệt như Kolia, nhưng được cái góc cạnh hẳn hoi. Một phía tường bằng đá, điều này khiến anh chàng Ivanopulo rất tự hào. Ippolit rầu rĩ nhận thấy ở đây đến nệm cũng không có nốt.

-Ở đây sẽ rất tuyệt, - Ostap nói - ở Matxcova được chổ này cũng lịch sự chán. Nếu cả ba ta cùng nằm dưới đất, thì thậm chí còn thừa một ít diện tích. Mà thằng cha Pantelei này đúng là đồ chó đẻ! Nó nhét cái đệm giường đi đâu nhỉ?

Cửa sổ nhìn ra hẻm. Một anh công an đang đi đi lại lại ngoài ấy. Trong ngôi nhà nhỏ phía đối diện được xây dựng theo kiểu Gô-tích là sứ quán của một cường quốc nhỏ xíu. Sau tấm lưới sắt, người ta đang chơi Ten-nít. Quả bóng trắng bay vun vút. Những tiếng kêu ngắn vang lên.

-Ồ, chơi cũng thường thôi – Ostap nhận xét – nhưng ta nghỉ ngơi cái đã.

Hai thành viên hợp đồng trãi giấy báo ra sàn, Ippolit rút ra chiếc gối gấp mà ông luôn mang theo bên mình.

Ostap nằm đè lên các bức điện và thiếp đi, Ippolit đã ngáy khò khò.

(1)Đơn vị đo chiều dài cũ của Nga, bằng 1,06km.
(2)Đơn vị đo lường cũ của Nga, bằng 0,71m.
Hết chương 16, xem tiếp chương 17 “HÃY TÔN TRỌNG NHỮNG CÁI ĐỆM GIƯỜNG, HỠI BÀ CON!”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 17
HÃY TÔN TRỌNG NHỮNG CÁI ĐỆM GIƯỜNG
HỠI BÀ CON!

-Linda ơi, ta đi ăn trưa thôi!

-Em không muốn, Em ăn trưa từ hôm qua rồi.

-Anh chưa hiểu ý em.

-Em chả đi ăn thịt thỏ dỏm đâu.

-Ngốc nghếch quá!

-Em không thể xài món xúc xích không có thịt.

-Hôm nay em sẽ được ăn món Sarlotka.

-Em chả thiết.

-Nói khẽ chứ. Họ nghe thấy thì phiền.

Thế là cặp vợ chồng trẻ chuyển sang nói thầm.

Hai phút sau, lần đầu tiên trong ba tháng chung sống, Kolia hiểu rằng người vợ yêu thích món xúc xích làm bằng cà rốt, khoai tây và đậu ít hơn hẳn anh ta.

-Nghĩa là em thích ăn thịt chó hơn ăn chay hả? – Kolia nói to – vì nóng nảy, anh ta đã quên những tay láng giềng hay nghe trộm.

-Nói khẽ chứ! – Linda quát to. – Sau nữa là anh đối xử với em quá tồi. Em thích ăn thịt! Đôi khi thôi. Như thế có gì là xấu.

Kolia đớ người. Câu chuyện xoay chuyển bất ngờ đối với anh ta. Món thịt sẽ phá vỡ toàn bộ kế hoạch chi tiêu của anh ta. Vừa đi dạo dọc chiếc đệm trên đó Linda nổi nóng đang ngồi, anh chồng trẻ vừa nhẩm tính một cách tuyệt vọng.

Việc can-ke các bản vẽ ở văn phòng công ty “Teknosila” đem lại cho Kolia Kalachov vào tháng nào may mắn nhất cũng không quá bốn mươi rúp. Về khoản thuê nhà thì Kolia khỏi phải trả. Trong cái hẻm hoang vu này không có ban quản trị, còn tiền nhà ở đây chỉ là một khái niệm trừu tượng. Mười rúp chi cho việc Linda đi học lớp cắt may tổ chức tại trường trung cấp xây dựng. Một suất ăn hai người (món thứ nhất: canh suông và món thứ hai: thịt thỏ dỏm hoặc mì ống thật) mà hai vợ chồng chia đều mỗi người ăn đúng nửa suất ở nhà ăn tập thể kiêng cá thịt (nhà ăn này mang tên “Đừng biển thủ”) cũng đã bứt ra khỏi ngân sách gia đình của Kolia mười ba rúp một tháng. Số tiền còn lại biến đi đâu không rõ, khiến Kolia lúng túng tự hỏi. “Tiền đi đâu nhỉ” – anh ta vừa nghĩ thầm trong lúc kéo dài cây bút ke màu da trời để kẻ một đường dài và mảnh. Trong tình hình như vậy mà chuyển sang chế độ ăn thịt tức là tự hủy diệt. Vì thế, Kolia thấy hăng máu lên:

-Em thử nghĩ, ai lại đi ăn thịt những cái xác súc vật bị giết chết bao giờ! Chỉ có những kẻ ăn thịt, người mạo danh văn hóa, mới làm như vậy. Tất cả các căn bệnh đều xuất phát từ thịt.

-Đương nhiên, - Linda rụt rè chế giễu, - chẳng hạn bệnh viêm họng…

-Đúng, đúng, bệnh viêm họng! Em tưởng không phải thế sao? Cơ thể con người bị mệt mỏi, suy yếu vì ăn thịt suốt đời làm sao còn khả năng chống nhiểm trùng được nữa.

-Ngốc quá nhỉ!

-Như thế mới hơi ngốc thôi. Ngu nhất là những kẻ chỉ cố tọng cho đầy dạ dày, chẳng quan tâm gì đến số lượng vitamin.

Kolia chợt dừng lời. Kolia thấy hoa mắt vì các thứ mì ống, cháo, vỏ khoai tây đã bị một khối cốt-lết thịt lợn to tướng nổi lên choáng mất. Hình như tảng thịt này vừa mới nhảy từ trong cháo ra. Đó đang sôi lép bép và bốc thơm nghi ngút. Mẩu xương của tảng cốt-lết lòi ra như cán khẩu súng lục ngày xưa.

-Em nên nhớ rằng – Kolia nói to, mỗi miếng cốt-lết thịt lợn làm người ta tổn thọ một tuần!

-Tổn thọ cũng được! - Linda nói – Món thịt thỏ dỏm làm người ta tổn thọ hẳn nửa năm kia. Hôm qua, lúc chúng mình ăn món cà rốt rán, em cảm thấy như đang hấp hối. Có điều là em chả muốn nói cho anh biết.

-Sao em không muốn nói?

-Em kiệt sức rồi. Lúc ấy em chỉ sợ khóc òa lên.

-Thế bây giờ em hết sợ à?

-Bây giờ thì em chả sợ quái gì nữa.

Linda khóc nấc lên.

-Lep Tonstoi, - Kolia run run giọng, - cũng không ăn thịt.

-Vâng, - Linda nói, giọng ngạt vì nước mắt, - bá tước ăn măng tây.

-Măng tây không phải là thịt.

-Nhưng hồi viết “Chiến tranh và hòa bình”, ông ấy đã ăn thịt! Đã ăn, đã ăn, đã ăn! Và dạo viết “Anna Karenina” cũng đã xơi, đã xơi, đã xơi món thịt!

-Thế hồi viết “Bản Sonat Kreiser”, văn hào cũng xơi thịt chắc? – Kolia hỏi một cách nham hiểm.

-“Bản Sonat Kreiser” là một tác phẩm rất ngắn. Ví thử ông ấy ăn món xúc xích dỏm, liệu có viết nổi “Chiến tranh và Hòa bình” không?

-Cuối cùng thì tại sao cô cứ đem ông Tonstoi của cô mà móc vào tôi?

-Tôi móc ông Tonstoi và anh thật chứ? Tôi? Ai giơ ông Tonstoi ra trước?

Đôi bên đã hết xưng hô “anh anh, em em” với nhau. Các hộp bút bên cạnh tha hồ hoan hỉ. Linda vội kéo chiếc mũ đan màu xanh từ sau gáy lên phía trán.

-Cô đi đâu vậy?

-Mặc tôi. Đi có việc chứ đi đâu.

Đoạn Linda chạy ra.

“Cô ấy có thể đi đâu nhỉ” – Kolia nghĩ và dỏng tai nghe.

-Chính quyền Xô Viết để cho chị em phụ nữ nhiều dân chủ quá! – Hộp bút cuối cùng bên trái lên tiếng.

-Chắc đi ra sông tự tử! – Hộp bút thứ ba bình phẩm.

Hộp bút thứ năm châm bếp dầu lên và hôn nhau như lệ thường.

Linda xúc động chạy ra ngoài phố.

Đây là cái giờ trong ngày chủ nhật, khi những người hạnh phúc chở những cái đệm giường mua ở chợ đi trên phố Arbat.

Những đôi vợ chồng mới cưới và những người Xô Viết có năng lực trung bình là khách hàng chủ yếu mà những tấm đệm lò xo. Họ chở chúng về nhà. Họ dựng chúng trên xe và dựng cả hai tay mà ôm giữ chúng. Làm sao họ lại không ôm giữ chúng, ôm giữ cái nền tảng hạnh phúc, bọc vải hoa màu xanh của mình kia chứ.

Hỡi bà con! Hãy tôn trọng cái đệm lò xo bọc vải hoa màu xanh! Đó là tổ ấm gia đình, là phần mở đầu và kết thúc của các thứ đồ đạc cần trang trí, là cái chung và cái hoàn chỉnh của không khí ấm cúng trong gia đình, là cơ sở của tình yêu, cha đẻ của cái bếp dầu! Ngọt ngào thay khi nằm ngủ trong tiếng kêu dân chủ của bộ lò xo dưới lưng! Đẹp đẽ thay giấc mơ của người nằm ngủ trên lớp vải màu xanh của đệm giường! Một sở hữu chủ của đệm giường được kính nể xiết bao!

Người bị mất đệm giường thật đáng thương. Anh ta không tồn tại nữa. Anh ta không nộp thuế, không có vợ, những người quen không cho anh ta vay tiền theo kiểu “Bao giờ trả cũng được”, các lái xe taxi ném theo anh ta những câu xúc phạm, các cô gái chế nhạo anh ta; các ô không ưa những anh chàng mơ tưởng hão huyền, những anh chàng duy tâm!

Người bị mất đệm giường phần đông viết những câu thơ đại loại:

Bura thoải mái nằm nghĩ trong nôi

Giữa tiếng chuông đồng hồ thánh thót.

Hoa tuyết bay ngoài trời

Và quạ bay như những niềm mơ ước!
Anh đứng trước ghi-sê điện báo mà sáng tác, làm cho những sở hữu chủ đứng đắn của đệm giường tới đây đánh điện phải tốn công chờ đợi.

Đệm giường làm đổ vỡ cả một đời người. Trong lớp bọc và bộ lò xo của nó ẩn giấu một sức mạnh nào đó có sức hấp dẫn cao và đến nay vẫn chưa được nghiên cứu. Người và đồ đạc cứ đổ xô đến theo tiếng vẫy gọi của lò xo đệm giường. Nhân viên phòng tài chính và các cô gái kéo đến. Họ muốn kết bạn với các sở hữu chủ đệm giường. Nhân viên phòng tài chính đến để kiểm tra pháp chế tài chính, vì lợi ích quốc gia. Còn các cô gái thì đến một cách vô tư, chỉ phục tùng các quy luật của tự nhiên.

Tuổi thanh xuân bắt đầu nở hoa. Anh nhân viên phòng tài chính, một khi thu thuế, như con ong hút nhụy hoa xuân, vo ve mừng rỡ bay về tổ của mình đặt ở quận nào đó. Người vợ và chiếc bếp dầu đã thay thế những cô gái bị đánh bật trở lui.

Đệm giường thật tham ăn. Nó đòi hỏi nhiều thứ lễ vật. Đêm đêm nó phát ra âm thanh của quả bóng rơi. Nó cần cái giá. Nó cần cái bàn đặt trên chiếc đế thô. Vì tiếng cọt kẹt của lò xo, nó đòi hỏi phải có rèm che, màn gió và bát đĩa. Nó thúc vào lưng con người và giục anh ta:

-Này ông, đi mua cối xay thịt và trục cán bột đi chứ!

-Này ông ơi, tôi xấu hổ thay cho ông đấy, đến bây giờ nhà ông vẫn chưa có thảm!

-Làm việc đi chứ! Tôi sắp giúp ông đẻ con cái! Ông cần có tiền sắm tả lót và xe nôi.

Đệm giường nhớ tất cả và làm tất cả theo ý riêng của nó.

Ngay đến nhà thơ cũng không thể thoát khỏi số phận chung. Kìa nhà thơ đang chở cái đệm giường vừa mua ngoài chợ về, đang sợ hãi ôm chặt lấy cái bụng mềm của cái đệm.

-Ta sẽ bẻ gãy đức kiên trì của ngươi, thi sĩ ạ! – Đệm giường nói. – Ngươi sẽ không cần chạy ra bưu điện làm thơ nữa. Và nói chung có đáng làm thơ không kia chứ? Bây giờ phục vụ đi! Và sai ngạch sẽ luôn luôn có lợi cho ngươi. Ngươi hãy nghĩ đến vợ con ngươi.

-Tôi chưa có vợ! – Nhà thơ quát to và lui bước trước ông thầy lò xo.

-Ngươi khắc có! Và ta không bảo đảm rằng đó sẽ là cô gái đẹp nhất trần gian. Thậm chí ta cũng không biết nàng có hiền hay dữ. Ngươi hãy chuẩn bị tinh thần. Ngươi sẽ có con.

-Tôi không thích trẻ con!

-Ngươi sẽ thích chúng!

-Bà dọa tôi đấy, bà đệm giường ạ!

-Im đi, đồ ngốc! Ngươi chưa biết hết mọi sự đâu! Rồi đây ngươi còn mua chịu đồ đạc ở cửa hàng đồ gỗ Matxcova cho mà xem.

-Tôi sẽ giết bà, hỡi bà đệm giường!

-Đồ chó con! Nếu ngươi dám làm điều đó, láng giềng của ngươi sẽ tố giác ngươi với ban quản trị nhà ở.

Vậy là mỗi ngày chủ nhật, những người hạnh phúc cứ đi tới đi lui trong thành phố Matxcova giữa tiếng reo hò của những cái đệm giường.

Nhưng dĩ nhiên, không riêng số người ấy thấy ngày chủ nhật ở Matxcova đẹp. Chủ nhật còn là ngày của các viện bảo tàng.

Ở Matxcova có một loại người đặc biệt. Họ chẳng hiểu gì về hội họa, họ không quan tâm đến kiến trúc và không ưa các hiện vật cổ xưa. Loại người này đến các viện bảo tàng chỉ vì đấy là các tòa nhà tuyệt đẹp. Họ lang thang trong các căn phòng sáng trưng, đưa cặp mắt ghen tị nhìn những cái trần nhà trang trí đẹp mắt, sờ tay vào những thứ “cấm sờ”, miệng không ngừng lẩm bẩm:

-Chà chà! Xưa kia người ta sống mới sướng chứ!

Họ chẳng cần biết các bức tường được trang trí bởi bàn tay nhà họa sĩ Pháp Phvi De Shavaunei. Họ cần biết người chủ cũ tốn bao nhiêu tiền để xây biệt thự này. Họ leo cầu thang, nơi có các bức tượng đá cẩm thạch ở thềm nghỉ, và hình dung ngày xưa có bao nhiêu đầy tớ đứng đây, tiền công hàng tháng và tiền puộc-boa mà mỗi đầy tớ được nhận là bao nhiêu. Trên bệ lò sưởi có đặt đồ sứ, nhưng họ chả để ý đến nó, họ chỉ nghĩ rằng lò sưởi là thứ bất lợi và tốn kém quá nhiều củi. Ở phòng ăn, nơi thường được bọc ốp gỗ sồi, họ không thèm chú ý tới những vật chạm trổ tuyệt diệu. Họ bị dằn vặt bởi ý nghĩ: lão thương gia chủ nhà này ngày xưa đã ăn những món gì và hết bao nhiêu tiền tính theo thời giá đắt đỏ bây giờ.

Ở bất cứ viện bảo tàng nào cũng có thể tìm thấy những kẻ như vậy. Trong lúc các đoan tham quan đi xem kiệt tác này đến kiệt tác kia, thì loại người này cứ đứng giữa phòng, chẳng nhìn cái gì, cứ rầu rĩ lẩm bẩm.

-Chà chà; ngày xưa người ta sống mới gớm chứ!

Linda vừa chạy ngoài phố, vừa nuốt nước mắt. Các ý nghĩ đuổi cô dồn dập. Cô nghĩ đến cuộc sống hạnh phúc và nghèo đói của mình.
“Giá như có thêm một cái bàn và hai chiếc ghế, thì thật là đầy đủ. Và cả bếp dầu cũng phải có. Phải tổ chức cuộc sống chứ.”

-Thật chẳng ra thể thống gì hết! – Cô nói lên thành tiếng.

Cái đói nổi lên cồn cào.

-Được, được lắm. Chính mình đã biết mình phải làm gì rồi.

Đoạn Linda đỏ mặt mua của bà bán rong một cái bánh mì kẹp giò. Dù cô đói đến mấy đến mấy, song ăn ngay ngoài đường cũng bất tiện. Gì thì gì chứ cô cũng là một sở hữu chủ đệm giường và cũng hiểu chân tơ kẽ tóc của cuộc sống. Cô ngoảnh mặt lại đàng sau rồi rẽ vào cổng một cái biệt thự hai tầng. Ở đây, với cảm giác cực kỳ thích thú, cô bắt đầu xử lý cái bánh vừa mua. Miếng giò hết ý. Một đoàn tham quan đi vào cổng. Lúc ngang qua chỗ Linda đứng bên tường, đoàn người cứ nhìn nhìn cô.

“Kệ cho họ nhìn!”– Linda nổi cáu nghĩ thầm.
Hết chương 17, xem tiếp chương 18 “BẢO TÀNG ĐỒ GỖ”[/I]
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 18
BẢO TÀNG ĐỒ GỖ

Lida lấy khăn mùi xoa lau miệng và phủi những vụn bánh dính ở áo. Cô thấy vui lên. Cô đang đứng trước tấm biển.

BẢO TÀNG NGHỆ THUẬT ĐỒ GỖ.

Về nhà bây giờ không tiện. Cũng chẳng có ma nào để đến chơi. Trong túi chỉ còn hai mươi cô-phết. Lida bèn quyết định mở đầu cuộc sống tự lập của mình bằng việc vào xem bảo tàng. Sau khi kiểm lại số tiền đang có, Lida bước vào tiền sảnh,

Ở đây cô vấp ngay phải một người rậm râu. Ông ta hầm hầm nhìn cái cột đá khổng tước, miệng lẩm bẩm qua bộ râu:

- Ngày xưa họ sống giàu sang ghê!

Lida trân trọng nhìn chiếc cột và đi lên lầu.

Ở những phòng nhỏ hình vuông, trần thấp, đến mức mỗi người bước vào đó đều trở nên người khổng lồ, Lida đi lang thang chừng mười phút.

Đấy là những phòng trang trí theo kiểu cổ đại, bọc gỗ hồng sắc và bạch dương, Karel – đồ gỗ ở đây trang nghiêm, đầy tính thượng võ. Hai cái tủ vuông mà cửa kính của chúng có hai ngọn lạo đặt chéo nhau, được kê đối diện với bàn viết. Cái bàn to ơi là to. Ngồi bên chiếc bàn ấy chẳng khác gì ngồi bên quảng trường Teatral, và Nhà Hát Lớn với dãy cột và bốn con ngựa bằng đồng chở Apolong đến xem buổi biển diễn đầu tiên vở “Hoa mào gà đỏ” sẻ chỉ nhỏ như cái lọ mực trên chiếc bàn ấy. Ít ra thì đó cũng là cảm tưởng của Lida, một người được nuôi dưỡng bằng cà rốt như một chú thỏ con. Góc phòng có những chiếc ghế bành cao, đầu ghế uốn lại kiểu sừng cừu. Ánh nắng đang rọi vào lớp vải hồng bọc ghế.

Cô muốn ngồi ngay xuống chiếc ghế bành như thế, nhưng không được phép ngồi.

Lida tưởng tượng khung cảnh sẽ ra sao, nếu đặt chiếc ghế kiểu cổ đại của vua Pavel cạnh tấm đệm giường sọc đỏ của cô. Thấy cũng bình thường. Cô đọc tấm biển nhỏ gắn trên tường có lời thuyết minh về căn cứ khoa học và tư tưởng của phong cách vua Pavel, rồi bực dọc về chuyện vợ chồng cô không có một phòng ở lâu đài này, cô bước ra một cái hành lang vừa bất ngờ gặp phải.

Phía tay trái ngay sát nên nhà, có một dãy cửa sổ hình bán nguyệt. Nhìn qua đó, Lida thấy phía dưới một phòng lớn màu trắng có hàng cột. Ở đấy cũng có đồ gỗ và khách tham quan đi lại. Chưa bao giờ cô nhìn thấy một căn phòng dưới chân mình.

Ngạc nhiên và thán phục, cô cứ đứng nhìn mãi xuống bên dưới. Bỗng cô thấy ở dưới đó, hai người quen sáng nay của cô là Bender và ông bạn đồng hành đầu trọc đang đi từ chỗ kê ghế bành đến chỗ kê chiếc bàn to.

- Hay lắm! – Lida nói, - đỡ buồn rồi.

Cô mừng rỡ chạy xuống phía dưới và bị lạc đường ngay lập tức. Cô lạc vào một phòng khách màu hồng trưng bày tới bốn mươi hiện vật. Đấy là loại ghế gỗ hồ đào chân cong. Từ phòng khách không có lối ra. Đành chạy ngược lại căn phòng tròn có ánh sáng trên trần hắt xuống, là nơi hình như chỉ có mấy chiếc gối hoa.

Cô chạy ngang qua những chiếc ghế bọc gấm vóc từ thời phục hưng Italia, những chiếc tủ Hà Lan, ngang qua chiếc giường lớn kiểu gô-tích, có diềm, bốn chân hình xoắn, màu đen. Người nằm trên chiếc giường này trông sẽ chỉ bằng hạt đậu là cùng.

Cuối cùng Lida nghe thấy tiếng ồn ào của một tốp người tham quan lơ đãng nghe ông trưởng đoàn vạch trần tham vọng đế quốc chủ nghĩa của Ekateria đệ nhị qua việc bà nữ hoàng quá cô say mê đồ gỗ kiểu Loui Sez.

Đây chính là cái phòng lớn có hàng cột lúc này Lida muốn xuống. Cô đi sang góc phòng đối diện, nơi đồng chí Bender quen thuộc với cô đang hăng hái đối thoại với ông bạn đồng hành đầu trọc của mình.

Tới gần, Lida nghe rõ giọng âm vang:

- Đồ gỗ theo kiểu siêu Mô-đéc. Nhưng hình như kg phải là thứ ta cần.

- Đúng, nhưng rõ ràng ở đây còn có các phòng khác. Ta phải đi xem tất cả một cách có hệ thống.

- Xin chào, - Lida nói.

Hai gã đàn ông qua lại và cùng nhăn mặt.

Chào đồng chí Bender. May quá, tôi gặp được anh ở đây, chứ một mình thì buồn chết. Nào, ta cùng đi xem với nhau cho vui nhé.

Hai gã đàn ông nhìn nhau. Ippolit lấy lại tư thế cho chững chạc, mặc dù ông ta khó chịu về chuyện Lida có thể gây trở ngại cho công việc quan trọng là tìm chiếc ghế chứa kim cương.

- Chúng tôi là dân tỉnh lẻ vớ vẩn, - Ostap nóng ruột nói, - mới vào đây. Còn cô hẳn là dân Matxcova chính cống cũng chịu vào xem chỗ này à?

- Hoàn toàn tình cờ thôi. Tôi mới cãi nhau với Kolia.

- Thế nào? – Ippolit hỏi.

- Thôi, ta rời khỏi phòng này thôi. – Ostap nói.

- Nhưng tôi chưa xem! Mà phòng này đẹp ghê.

- Bắt đầu đấy! – Ostap nói nhỏ vào tai Ippolit. Đoạn hắn quay sang phía Lida, nói tiếp – ở đây hoàn toàn chẳng có gì đáng xem. Phong cách suy đồi. Thời ky Kerenki.

- Người ta bảo tôi ở đâu gần đây có trưng bày đồ gỗ kiểu Hambx, - Ippolit nói, - có lẽ ta sang phòng khác xem.

Lida đồng ý, cô khoác tay Ippolit (cô cảm thấy ông ta là một học giả hết sức đáng yêu) đi ra cửa. Mặc dù toàn bộ tính chất nghiêm trọng của tình hình và giờ phút quyết định trong việc tìm kiếm kho báu đã điểm, song Ostap đi sau cặp trai gái ấy vẫn không nhịn được cười. Hắn thấy tức cười trước cảnh vị đô thống sắm vai tình lang.

Lida gây rắc rối cho hai thành viên hợp đồng này quá thể. Khi họ chỉ nhìn thoáng qua đã biết trong phòng không có thứ đồ gỗ cần thiết, muốn đi tuốt sang phòng khác, thì Lida lại thong thả xem kỹ từng hiện vật. Cô đọc thành tiếng toàn bộ lời giới thiệu dán trên hiện vật, cô đưa ra những lời bình phẫm gay gắt về khách tham quan. Bất giác cô tưởng tượng mỗi thứ đồ gỗ ở đây nếu đem về kê ở phòng “hộp bút” của mình thì sẽ ra sao. Cô hoàn toàn không thích chiếc giường kiểu gô-tích. Nó quá to. Ví thử có phép màu nào đó khiến Kolia được phân phối một căn phòng rộng ba sagien (1) vuông chăng nữa, thì các hiện vật thời trung cổ ấy cũng không kê vừa trong phòng. Tuy vậy, Lida vẫn đi vòng quanh chiếc giường mấy lần, dùng bước chân để đo diện tích thật sự của nó. Lida rất vui. Cô không để ý đến bộ mặt nhăn như bị của hai ông bạn đường, mà tính cách hiệp sĩ của hai vị đó không cho phép họ cắm đầu đi thẳng sang phòng trưng bày đồ gỗ của nghệ dân lừng danh Hambx.

- Chịu đựng chút nữa vậy, - Ostap nói nhỏ với Ippolit, - mấy chiếc ghế không chạy đâu mất mà sợ. Còn ngài đô thống này, xin ngài ôm eo cô ả vừa vừa thôi, tôi ghen đấy.

Ippolit mỉm cười, vẽ tự mãn.
Nhiều phòng trưng bày quá, tưởng chừng đi mãi vẫn không hết. Đồ gỗ thời đại Aleksandr có bao nhiêu bộ mà kể. Kích thước tương đối nhỏ của chúng khiến Lida vô cùng thích thú.

- Ô, xem này, xem này! – cô reo lên và kéo áo Ippolit, - ông có thấy cái bàn Buy-rô này không? Cái bàn này mà kê ở phòng của tôi thì hết ý. Đúng thế không ông?

- Tuyệt diệu! – Ostap giận dữ nói – Chỉ tội nó được làm ra vào thời đại suy đồi.

- Tôi đã xem phòng này rồi, - Lida nói khi bước vào phòng khách trưng bày gỗ hồng sắc, - theo tôi, chả nên dừng ở đây.

Lạ thay, cô thấy hai ông bạn đường này giờ đứng sững ở cửa như hai người lính gác.

- Sao vậy? Ta đi tiếp chứ. Tôi mỏi chân rồi.

- Hượm đã, - Ippolit gỡ tay Lida ra, - cô em chờ một chút nhé.

Căn phòng lớn trưng bày toàn đồ gỗ. Những chiếc ghế kiểu Hambx kê dọc bức tường và xung quanh chiếc bàn. Chiếc đi-văng ở góc phòng cũng có một hàng ghế bao quanh. Những cái chân cong và những cái lưng ghế tiện lợi mới quen thuộc với Ippolit làm sao. Ostap nhìn ông ta dò xét, Ippolit đỏ mặt lên.

- Tiểu thư mỏi chân rồi, - ông ta bảo Lida – tiểu thư hãy ngồi nghỉ ở đây một chút, để tôi và anh bạn xem phòng này đã. Có vẻ lý thú đây.

Hay thành viên hợp đồng ấn Lida ngồi xuống và lách ra phía cửa sổ.

- Chúng đấy hả? – Ostap hỏi.

- Hình như là thế. Phải xem kỹ hơn.

- Đủ cả mười chiếc chứ?

- Để tôi đếm đã. Xin hãy chờ một phút…

Ippolit bắt đầu đưa mắt từ chiếc ghế nọ đến chiếc ghế kia. Cuối cùng ông ta nói:

- Xin lỗi, những hai chục cái. Không thể như vậy được. Mười cái thôi mới đúng.

- Thì ông cứ nhìn cho kỹ. Có thể đây không phải là loại ghế ấy chăng.

Hai người bắt đầu đi xem từng chiếc ghế.

- Thế nào? – Ostap giục.

- Hình như lưng ghế khác với loại của tôi.

- Nghĩa là loại khác?

- Vâng.

- Có lẽ tôi ký hợp đồng với ông chỉ uổng công vô ích. Ostap hoàn toàn cụt hứng.

- Thôi được, - Ostap nói, - phiên hợp tiếp tục. Cái ghế không phải là cây kim. Sẽ tìm ra. Ông hãy đưa mấy tấm phiếu cho tôi. Đành phải tiếp xúc bất đắc dĩ với ban phụ trách viện bảo tàng. Ông hãy ra ngồi với con bé kia, để tôi đi một lát lo chuyện đó.

- Sao ông buồn thế? – Lida hỏi. – Ông mệt rồi hả?

Ippolit im lặng.

- Ông có nhức đầu không?

- Có, hơi hơi thôi. Lo nghĩ mà. Không có phụ nữ săn sóc nên lắm lúc sống rất cực.

Lida đầu tiên hơi ngạc nhiên, sau đó nhìn kỹ ông bạn trọc đầu và cảm thấy ông ta đáng thương thật. Cặp mắt ông ta đầy vẻ đau khổ. Chiếc kính kẹp mũi không che được hai quầng mắt thâm sâu. Việc đột ngột chuyển từ cái lối sinh hoạt an nhàn của một nhân viên phòng hộ tịch thị trấn sang lối sinh hoạt bất tiện, bận rộn của một gã thợ săn kim cương, một gã phiêu lưu, có cái giá của nó. Dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Ostap, Ippolit mất hết cả thể diện và nhanh chóng bị hòa tan vào cái trí tuệ ghê gớm của gả con trai vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ. Giờ đây, ông muốn được ngồi riêng với nữ công dân kiều diễm Lida Kalachova, ông muốn thổ lộ với nàng tất cả những đau khổ và xúc động của mình, nhưng ông không dám làm như vậy.

- Vâng – ông nói và đắm đuối nhìn người đối thoại, - công việc nó thế đấy. Còn cô em sống thế nào, Lida?

- Này, tên ông là gì nhỉ?

Đôi bên nói rõ họ tên nhau cho biết.

“Chuyện cổ tích tình yêu” - Ippolit vừa nhìn khuôn mặt giản dị của Lida, vừ nghĩ thầm. Lão đô thống quý tộc già bỗng khao khát thèm muốn sự vuốt ve của phụ nữ mà sự thiếu vắng của nó đã khiến ông sống rất cực. Ông bèn nắm chặt bàn tay của Lida trong bàn tay nhăn nheo của mình và bắt đầu say sưa kể chuyện Paris. Ông muốn trở nên giàu sang, muốn tiêu xài hoang phí. Ông muốn uống rượu sâm-banh với một mỹ nhân ở một buồng riêng trong tiếng nhạc êm dịu do dàn nhạc nữ phát ra. Ông nói điều đó với cô bé Lida, một cô bé dĩ nhiên không biết gì về những khoản đó và do bản chất của mình, cô cũng không thể nhận thức được toàn bộ vẻ huyền diệu của lối ăn chơi đó. Mà Ippolit thì muốn hấp dẫn cô gái làm sao! Thành thử ông cứ kể hoài về chuyện Paris.

- Ông là nhà khoa học phải không? – Lida hỏi.

- Vâng, cũng gần như thế, - Ippolit trả lời và cảm thấy từ hồi quen Ostap, ông mới có thêm cái tính liều lĩnh trái hẳn với thói quen thận trọng của mười năm qua.

- Thế ông bao nhiêu tuổi rồi, xin lỗi nếu câu hỏi thiếu tế nhị.

- Đối với nền khoa học mà hiện giờ tôi đang đại diện, điều đó không có quan hệ gì.

Câu trả lời nhanh chóng và chính xác ấy đã chinh phục được Lida.

- Nhưng dẫu sao … Ba mươi? Bốn mươi? Năm mươi?

- Gần gần! Ba mươi tám.

- Ô hô! Trông ông trẻ hơn cái tuổi ấy nhiều.

Ippolit cảm thấy hạnh phúc quá.

- Bao giờ cô em cho tôi cái vinh hạnh được gặp lại cô em? - Ippolit nói giọng mũi.

Lida ngượng ngùng. Cô cựa quậy người trên ghế và thấy buồn buồn.

- Đồng chí Ostap đi đâu lâu thế nhỉ? – Cô hỏi, giọng trong trẻo.

- Bao giờ, bao giờ và ở đâu chúng ta sẽ gặp lại nhau, cô em? – Ippolit nôn nóng hỏi lại.

- Ồ, em chả biết đâu. Lúc nào cũng được.

- Hôm nay nhé?

- Hôm nay?

- Tôi van cô em.

- Cũng được thôi. Ông hãy đến chỗ vợ chồng em.

- Không, ta gặp nhau ngoài đường hay hơn. Thời tiết dạo này tuyệt lắm. Cô em biết câu thơ này không: “Kìa tháng năm vui tươi. Kìa tháng năm hấp dẫn. Ôi không khí trong lành.”

- Thơ của Zharov phải không ạ?

- H…. M… Hình như thế. Vậy là hôm nay nhé? Ở đâu nào?

- Ông lạ thật! Ở đâu cũng được nếu ông muốn thì ở ngay chỗ cái két sắt ấy. Ông biết chỗ đó chứ? Bao giờ trời tối…

Ippolit vừa kịp hôn bàn tay Lida (ông làm động tác này rất trịnh trọng), thì Ostap trở lại với vẻ mặt rất nghiêm trang.

- Xin lỗi măm-den, - hắn nói nhanh, - nhưng tôi và ông bạn tôi không thể tiễn cô được. Có một việc nhỏ nhưng vô cùng hệ trọng. Chúng tôi phải đi ngay tới một địa điểm hẹn trước.

Ippolit nghẹt thở.

- Tạm biệt Lida, - ông nói, - xin lỗi, xin lỗi, nhưng chúng tôi vội thật đấy.

Đoạn hai thành viên chạy đi luôn, để cô Lida đứng lại ngạc nhiên trong căn phòng bày la liệt các thứ đồ gỗ kiểu Hambx.

- Nếu không có tôi thì sẽ chẳng đạt được kết quả gì, - Ostap nói khi hai người đi xuống cầu thang – Ông hãy cầu phúc cho tôi đi, cầu phúc đi, đừng sợ mỏi cổ! Ông hãy nghe đây! Đồ gỗ của ông không hề có giá trị bảo tàng. Nó chỉ đáng quẳng cho trại “lao công đào binh” mà thôi! Ông đã vừa lòng với tình huống ấy chưa?

- Giễu cợt kiểu gì lạ vậy ! – Ippolit nói vì đã bắt đầu tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của cái trí tuệ ghê gớm con trai gã công dân quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ nắm giữ.

- Im nào, - Ostap lạnh lùng nói, - ông chưa biết điều gì xảy ra đâu. Nếu bây giờ chúng ta không lấy món đồ gỗ của chúng ta thì đi đứt. Sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy chúng nữa. Tôi vừa có một cuộc trao đổi ý kiến nặng nề với tay chủ nhiệm cái bãi rác lịch sử này.

- Kết quả ra sao?- Ippolit lớn tiếng,- Thằng cha chủ nhiệm bảo anh thế nào?

- Bảo tôi tất cả những gì cần thiết. Ông đừng lo. “Xin ông cho biết,” - tôi hỏi hắn, - “ông giải thích thế nào cái việc bộ ghế ở Stargorot gửi lên chỗ ông mà lại không thấy trưng bày?”. Dĩ nhiên tôi dùng giọng lịch sự, thân mật với hắn. “Bộ ghế nào vậy?” – hắn hỏi - ở viện bảo tàng chúng tôi không thể có chuyện như thế”. Tôi bèn chìa ra mấy tấm phiếu. Hắn đi lục sổ sách, tìm kiếm, hàng nữa giờ sau mới quay lại. Ông thử tưởng tượng xem, bộ ghế ấy bây giờ ở đâu?

- Mất rồi ư? – Ippolit thốt lên.

- Không đâu, thế mới hay chứ. Ông thử tưởng tượng xem, ở cái xó chợ này mà nó vẫn nguyên vẹn cơ chứ. Như tôi đã nói với ông, nó không hề có giá trị bảo tàng bảo tiếc gì cả. Người ta đã vứt nó vào kho, và xin ông lưu ý cho, sau bảy năm (nó nằm chết dí trong kho những bảy năm đằng đẵng!) ngày hôm qua nó bị đem đi bán đấu giá của vụ quản lý khoa học. Và nếu như ngày hôm qua hoặc sáng hôm nay người ta chưa bán đến nó, thì nó sẽ là của ta! Ông thỏa mãn chưa?

- Đi nhanh lên! – Ippolit hét to.

- Xà ích! – Ostap lớn tiếng gọi xe ngựa.

Hai nhân vật bước lên xe không cần mặc cả.

- Ông hãy cầu chúa cho tôi đi, cầu chúa đi! Đừng sợ, thưa ngài thống chế “không quân”. Gì chứ rượu, gái và cờ bạc thì ta sắp được ăn chơi thỏa sức. Tôi sẽ thanh toán với ông cả tiền mua chiếc áo gi-lê xanh này.

Phòng bán đấu giá nằm ở phố Petrovka. Hai thành viên hợp đồng xuống xe và chạy bổ vào trong đó như hai con ngựa đua.

Ở ngay phòng đánh giá đầu tiên, họ đã nhìn thấy cái mà họ bao lâu tìm kiếm. Cả mười chiếc ghế chân cong của Ippolit Matveevich đều kê dọc bức tường. Thậm chí cả lớp vải bọc của nó cũng không hề bị bám bẩn hoặc sờn rách. Chúng tươi mát và sạch sẽ tưởng chừng vừa mới tách ra khỏi sự giám sát của bà Petukhova căn cơ.

- Phải những cái ghế đó không? – Ostap hỏi.

- Trời ơi, trời ơi, chính chúng đấy, - Ippolit khẳng định – Chính những cái ghế ấy đấy. Lần này thì chắc như đinh đóng cột.

- Dầu sao cũng phải kiểm tra cho kỹ, - Ostap cố thản nhiên nói.

Hắn bước lại chỗ người bán hàng.

- Ông ơi, mấy chiếc ghế kia hình như của viện bảo tàng thanh lý phải không?

- Mấy chiếc ghế ấy à? Vâng?

- Vậy ông có bán không?

- Có.

- Giá bao nhiêu?

- Chưa có giá. Chúng tôi bán theo kiểu đấu giá.

- Ra thế, tí nữa sẽ bán chứ?

- Không, hôm nay hết giờ rồi. Mai sẽ bán từ năm giờ sáng.

- Bây giờ không bán thật ư?

- Thật, ngày mai, từ năm giờ sáng.

Phải bỏ mấy chiếc ghế ở đây mà đi ngay thì quả là không thể được.

- Xin phép cho bọn tôi xem một chút, được chứ ạ? – Ippolit lúng búng nói.

Hai thành viên hợp đồng xem xét bộ ghế hồi lâu. Họ ngồi thử và còn xem cả vài đồ vật khác cho đỡ bất tiện. Ippolit cứ xuýt xuýt xoa xoa và chốc chốc lại huých khuỷu tay vào người Ostap.

- Ông hãy cầu nguyện cho tôi đi? – Ostap thì thầm – cầu nguyện đi, ông đô thống.

Ippolit sẳn sàng không chỉ cầu nguyện cho Ostap, mà còn hôn hít cả cái gót giày màu đỏ của ông vua mánh.

- Ngày mai, - Ippolit lẩm bẩm, - ngày mai, ngày mai, ngày mai.

Ông ta muốn hét to lên.

(1) 1 Saigen bằng 2,134m. Đơn vị đo lường cũ của Nga.

Hết chương 18, xem tiếp chương 19 “BẦU CỬ KIỂU TÂY ÂU”
 
Top