Mười hai chiếc ghế (Двенадцать стульев) - Ilf & Petrov

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
THAY LỜI MUỐN NÓI

Chào Bắc Giang, chào những người bạn cách xa tôi trên 1600km!

Tôi tuy không phải người Bắc Giang, nhưng tôi may mắn quen với một người con gái trên quê hương các bạn. Một người bạn mà tôi chưa một lần gặp mặt trực tiếp, chỉ qua những lần thức khuya chuyện trò đã để lại trong tôi rất nhiều cảm xúc... Bắc Giang và những người Bắc Giang đã để lại trong tôi những tình cảm đằm thắm, dịu dàng... tôi mến người bạn gái đó và tôi mến các bạn!

Thưa các bạn! Nụ cười vốn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Biết cười đã là một nghệ thuật, người biết làm cho người khác cười chắc hẳn là một nghệ sĩ! Tôi thích thấy những người đối ẩm với tôi có thể cười sảng khoái trong mọi tình huống, cho dù đó có là tình huống tuyệt vọng nhất.

Người ta thường hỏi tại sao tôi cứ hay thích cười, và lại càng thích hơn khi làm cho người khác cười lúc trò chuyện... Tôi có một niềm đam mê với những câu chuyện trào phúng, và luôn muốn chia sẻ với mọi người những tác phẩm xuất sắc mà tôi từng đọc qua.

Tôi đã giới thiệu tác phẩm “MƯỜI HAI CHIẾC GHẾ” cho người bạn Bắc Giang của tôi. Tác phẩm này, tuy rất nổi tiếng ở Nga và trên thế giới, -đã được tái bản rất nhiều lần và được dịch ra hơn 80 thứ tiếng,- nhưng hiện tại lại có vẻ rất hiếm hoi để tìm đọc được Mười Hai Chiếc Ghế ở Việt Nam. Mười Hai Chiếc Ghế từng được xuất bản một lần vào năm 1984 và cho đến bây giờ hình như chưa có 1 lần tái bản. Tôi tình cờ - và may mắn – tiếp cận 1 lần vào năm 2002 từ một người bạn đồng nghiệp nhưng cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa được đọc lại lần thứ 2 do mất liên lạc. Tuy một lần được đọc nhưng Mười Hai Chiếc Ghế đã có ảnh hưởng không thể đo đếm được trong tôi về cách nói chuyện, cách dùng từ, cách cảm nhận sự việc và cách nhìn nhận những điều bất đắc ý trong cuộc sống. Tôi đã từng bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm ở các cửa hàng sách cũ ở Sài Gòn... nhưng chưa nhìn thấy nó một lần nào!

Người bạn Bắc Giang của tôi cũng đã từng tìm kiếm nó ở Hà Nội... nhưng không có!

Hôm nay, tôi nhận được một bản copy từ Thư Viện Sách Bình Định. Tôi muốn tặng nó như là một món quà ý nghĩa cho Cô Gái Bắc Giang (tôi vẫn thường gọi bạn ấy là như thế) bằng cách đánh máy lại toàn bộ tác phẩm kinh điển này. Và tôi chỉ post lên BGO để xem như là một món quà nhỏ tặng quê hương Bắc Giang các bạn.

Ngày trước, mỗi ngày tôi thường dùng 3 tiếng để chuyện trò với cô ấy. Ngày trước, 3 tiếng đó là khoảng thời gian vui vẻ,.... vài ngày gần đây, 3 tiếng đó là khoảng thời gian trống trải lạ lùng. Từ nay, mỗi ngày tôi sẽ dùng 3 tiếng đó để post vài chương trong tác phẩm này để các bạn có thể đọc, chiêm nghiệm và cười sảng khoái. Tôi hy vọng tác phẩm này sẽ giúp ích cho nhiều người để chúng ta cùng nhau nhìn nhận cuộc sống theo một góc độ lạc quan, nhiều ý nghĩa.

Mời các bạn cùng với 3 nhân vật: Vua mánh Ostap, Ngài Đô Thống Quý Tộc Ippolit và Vị Cha Xứ Đáng Kính Fedor phiêu lưu trên con đường truy tìm kim cương ẩn giấu trong “MƯỜI HAI CHIẾC GHẾ”.

Sieuquayteppi nguồn: bacgiangonline.net
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
MƯỜI HAI CHIẾC GHẾ
Tác giả: I. ILF _ E.Petrov
Dịch giả: Lê Khánh Trường
Xuất bản: NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ - 1984​
LỜI TỰA
“Mười hai chiếc ghế” của hai nhà văn Liên Xô I.ILF và E.Petrov là một kiệc tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống.

Ra mắt bạn đọc Liên Xô từ trước chiến tranh thế giới lần thứ 2, đến nay “Mười hai chiếc ghế” đã được in đi in lại hàng chục lần, được dựng thành phim 3 lần (lần thứ 3 vào năm 1982), được tất cả các tầng lớp nhân dân yêu mến, có nhiều người đọc thuộc lòng cả tác phẩm (!) và tên sách được lấy làm tiêu đề cho trang 16 (trang cuối cùng) trên tuần báo “Văn Nghệ” cơ quan ngôn luận của mọi nhà văn Liên Xô. Một hiện tượng văn học độc đáo.“Mười hai chiếc ghế” tập trung phê phán các thói xấu của cong người và nhiều hiện tượng tiêu cực hoặc bất hợp lý trong xã hội.

Sự việc trong tác phẩm diễn ra vào năm 1927 ở Liên Xô, thời kỳ nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên trên thế giới vừa trãi qua muôn vàn gian khổ của những ngày đầu sau cách mạng tháng Mười, của cuộc nội chiến khốc liệt, của sự can thiệp do bọn đế quốc bên ngoài gây nên, vừa trãi qua chế độ cộng sản chủ nghĩa thời chiến và chính sách kinh tế mới. Trong cái giai đoạn trứng nước, còn nhiều ấu trĩ ấy của cách mạng, khi xã hội đầy ắp những biến động dồn dập, có nơi có lúc rối loạn, thì bên cạnh những cố gắng vượt vậc của nhân dân lao động cùng chính quyền Xô Viết thiết lập một trật tự xã hội mới, xây dựng một cuộc sống mới theo những tiêu chuẩn chính trị, đạo đức tiến bộ, vẫn còn rơi rớt nhiều tàn dư của quá khứ, vẫn còn một bộ phận nhỏ những người lạc lõng, phần thì do bản chất giai cấp đối kháng với nhân dân lao động, phần thì do ngây thơ, ấu trĩ, trình độ nhận thức non kém, phần thì do không khắc phục nỗi những thói hư tật xấu có tính chất phổ biến của xã hội loài người – cái bộ phận nhỏ ấy lại tiến hành những hoạt động tội lỗi hoặc phi đạo đức, cản trở tiến bộ xã hội. Trong bộ phận ấy, có bọn chủ mưu, cố ý (thuộc giai cấp bóc lột), nhưng cũng có người vô ý thức, hoặc chỉ là nạn nhân đáng thương và bị lợi dụng làm phương tiện cho kẻ xấu.

Bằng ngôn ngữ trào lộng, sinh động, dí dỏm, tinh tế, ngòi bút sắc xảo của hai tác giả đã chĩa mũi nhọn vào hàng loạt thói xấu tệ hại và hiện tượng tiêu cực của xã hội. Nào là ước mong làm giàu một cách bất chính, chạy theo ảo ảnh giàu sang, phú quý, hưởng lạc lỗi thời, sằn sàng dùng mọi thủ đoạn tội lỗi, từ nhỏ đến lớn, kể cả giết người để dạt tới mục đích của mình (Ippolit, Ostap, Cố đạo Fedor). Nào là tệ ăn cắp, bòn rút của công, lợi dụng chức quyền (chủ nhiệm nhà dưỡng lão – Alkhen, phụ trách phòng lưu trữ hồ sơ – Varfolomei). Nào là hoạt động kinh doanh trái phép, gian dối, buôn lậu, làm hàng “dỏm” (chủ nhiệm hợp tác xã Kisliarski, dược sĩ Leopold). Nào là thói đam mê bói toán (Elena, Gritsasueva). Nào là bệnh chạy theo mốt, đua đòi rởm (Elloshka), định cạnh tranh về cách ăn mặc và giải trí với con gái nhà tỉ phú Mỹ. Nào là sự ngây thơ đến ngu ngốc về chính trị của một số thương gia và các phần tử bất mãn với chế độ mới, tin vào tổ chức giả danh giải phóng, để đến nỗi bị móc túi một cách công khai (liên minh “Lưỡi kiếm và lưỡi cày”). Nào là thủ đoạn giả đò ăn mày. Nào là bệnh hình thức và ấu trĩ trong công tác tuyên truyền, báo chí, phim ảnh (tại lễ khánh thành đường tàu điện mà có tới sáu diễn giả nói về tình hình thế giới, kể cả “tình hình thế giới của nước ta” (!!!), diễn kịch cổ điển của Gôngôn mà xen vào những câu chuyện đả kích quốc hội Anh và Săm-péc-lanh; tật nói dai, nói dài, không đi vào thực chất vấn đề, cái lối nêu khẩu hiệu tùy tiện, ngớ ngẩn “Ăn thịt có hại cho sức khỏe”). Nào là vô số những sự bất hợp lý trong cách tổ chức sinh hoạt công cộng (các rạp hát và chiếu bòng, sân vận động chỉ mở một cửa nhỏ để dân chúng phải chen chúc khổ sở khi ra vào, dựng các thứ chướng ngại vật ngăn cách người tới liên hệ công tác…)

Nhân vật trung tâm là Ippolit và Ostap. Ngài cựu đô thống quý tộc dưới thời Sa Hoàng ở thành phố Stargorot, sau cách mạng đã trốn đến thị trấn N làm nhân viên phòng hộ tịch, rồi theo lời trối trăn của bà mẹ vợ về những viên kim cương giấu trong ruột một trong 12 chiếc ghế; đã bỏ công tác để đi tìm kho báu ấy. Ngày đầu tiên săn tìm kim cương, Ippolit đã gặp Ostap, một tay đại bợm, một ông vua mánh. Ostap là con trai một nữ công tước thời trước (kết quả tằng tịu giữa bà ta với một gã công dân Thổ Nhĩ Kỳ), một thanh niên thông minh, đầy sức sống. Nhưng toàn bộ óc thông minh và sức sống mãnh liệt của hắn bị hướng vào hoạt động lừa đảo, bịp bợm. Điều thú vị là Ostap biết chớp lấy thời cơ, chỉ nhằm vào chỗ yếu, chỉ lợi dụng mọi sơ hở, mọi thói hư tật xấu và sự cả tin đáng yêu của những người khác. Thành thử, nên trong hai nhân chính này (hai kẻ lúc nào cũng ở bên nhau), Ippolit, vị đại diện của giới quý tộc nước Nga cũ, tỏ ra lỗi thời, xấu xa, ngu xuẩn, hèn hạ, bần tiện đến thảm hại, gây nên cảm giác khinh bỉ, ghê tởm ở bạn đọc đối với hắn; thì Ostap vẫn còn giành được phần nào thiện cảm của người đọc, luôn luôn gợi tiếng cười thoải mái, tiếng cười châm biếm qua những hành động quay quắt, lối ngụy biện giàu tính hài hước, thái độ tự tin, lạc quan của hắn.

Ở phần kết, Ippolit giết Ostap để định độc chiếm kho báu. Không phải ngẫu nhiên mà bạn đọc đã viết thư đề nghị hai tác giả cho Ostap được sống lại. Và thể theo nguyện vọng ấy, hai nhà văn đã cho Ostap hồi sinh, trở thành nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết thứ hai cũng nổi tiếng không kém “Con Bê Vàng”.

Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.

Xã hội Xô Viết ngày nay đã trở thành một xã hội tốt đẹp nhất thế giới, nhân dân Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội phá triển. Đương nhiên, cái thời kỳ được miêu tả trong tác phẩm “MƯỜI HAI CHIẾC GHẾ” đã là quá khứ gần sáu mươi năm về trước ở Liên Xô. Nhiều điều bây giờ đọc lại, ta chỉ còn lắc đầu nhè nhẹ và mỉm cười tủm tỉm. Thế như, điều đáng buồn là một số thói hư tật xấu lại mang tính chất phổ biến đối với loài người. Cho nên cuộc đấu tranh khắc phục chúng ta đã, đang và sẽ còn diễn ra lâu dài, ở mọi lúc, mọi nơi, và trong cuộc đấu tranh ấy, tiếng cười châm biếm, phê phán là một vũ khí hiệu nghiệm của chúng ta.
LÊ KHÁNH TRƯỜNG - 1984
 
Chỉnh sửa cuối:

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
PHẦN THỨ NHẤT
SƯ TỬ STARGOROT

CHƯƠNG 1
BEJENTRUC VÀ “NIMFA”

Ở thị trấn N có nhiều hiệu cắt tóc và văn phòng mai táng đến nỗi tưởng chừng dân cư thị trấn này sinh ra chỉ là để cạo râu, xức nước hoa lên đầu rồi chết ngay tức khắc. Song trên thực tế, ở thị trấn N người ta sinh ra, cạo râu và chết rất ít. Sinh hoạt của thị trấn N hết sức bình lặng. Những buổi chiều mùa xuân làm say lòng người, bùn lấp lánh dưới ánh trăng như đá ăng-tơ-ra-xít, và toàn bộ nam nữ thanh niên thị trấn mê mẫn cô thứ ký công đoàn sở công chính đến mức điều đó cản trở cô thu tiền hàng tháng.

Vấn đề tình yêu và chết chóc không làm cho Ippolit Matveevich Vorobjaninov bận tâm, mặc dù cho tính chất công tác của mình, ông phụ trách những vấn đề ấy từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều mỗi ngày. Tính cả nửa tiếng nghỉ ăn sáng.

Sáng sáng, sau khi uống cạn xuất sữa nóng của mình đựng trong chiếc cốc lạnh buốt có vân do bà Klavdina Ivanovna đưa, từ trong ngôi nhà nhỏ tranh tối tranh sáng, ông bước ra đường phố thênh thang tràn ngập ánh sáng mùa xuân kỳ diệu. Đường phố này mang tên đồng chí Gubernxki, hay nôm na hơn – phố đồng chí tỉnh trưởng. Đây là đường phố lý thú nhất trong những đường phố thường thấy ở các thị trấn. Bên trái, sau cửa kính màu xanh lá cây lượn sóng, thấy những chiếc quan tài của văn phòng mai táng “Nimfa” óng ánh bạc. Bên phải, đàng sau cái cửa sổ nhỏ đã bong hết mát-tít, là những chiếc quan tài gỗ sồi bụi bặm và tẻ nhạt của tay thợ làm quan tài Bejentruc xếp thành đống cau cau có có. Tiếp theo đó là hiệu cắt tóc kiêm chữa bệnh của Pie và Konstantin “hứa hẹn với khách hàng sẽ săn sóc chu đáo” “đến từng cái móng tay” và “sẳn sàng tới phục vụ tại gia”. Xa hơn nữa là khách sạn có phòng cắt tóc, và liền sau đấy, trên một khoảng đất rộng, một con bê màu vàng nhạt thong thả đứng liếm một tấm biển bằng tôn gỉ, gá vào cánh cổng long mộng, trên đề
VĂN PHÒNG MAI TÁNG
“XIN MỜI”


Dịch vụ mai táng thôi thì nhan nhản chỗ này chỗ kia, mà khách hàng nào có mấy ai. Cái văn phòng “XIN MỜI” này đã bị phá sản từ ba năm trước khi Ippolit Matveevich đến định cư tại thị trấn N, còn lão thợ săng Bejentruc thì lúc nào cũng say mèm và đã có lần cố đưa chiếc quan tài đẹp nhất của mình đến hiệu cầm đồ.

Dân chúng ở thị trấn N chết thưa quá, và Ippolit Matveevich biết rõ điều đó hơn ai hết, bởi lẽ ông làm ở phòng hộ tịch, phụ trách bàn đăng ký khai tử và giá thú.

Cái bàn, nơi Ippolit Matveevich ngồi làm việc, giống như một tấm bia mộ cũ kỹ. Góc trái của nó đã bị bầy chuột thủ tiêu. Bốn cái chân còm cõi của nó run rẩy dưới sức nặng của một đống cặp giấy màu thuốc lá, trong đó ghi rõ mọi tư liệu về gia phả của dân cư thị trấn N, về những cây gia hệ từng mọc trên mảnh đất khô cằn này.

Sáng thứ sáu, ngày 15 tháng tư năm 1927, Ippolit Matveevich như thường lệ, thức dậy vào lúc bảy giờ rưỡi và lập tức đút mũi vào chiếc kính kẹp mũi cổ lổ sỉ gọng vàng. Ông vốn không đeo kính. Một hôm nghĩ rằng dùng kính kẹp mũi là mất vệ sinh, Ippolit Matveevich đến hiệu kính mua một cặp kính không gọng, vòng mắt mạ vàng. Lần thứ nhất đeo kính, ông lấy làm mãn nguyện, nhưng vợ ông (điều này xảy ra trước khi bà qua đời ít lâu) thấy rằng khi đeo kính ông giống Miliukov (1) như đúc, thành thử ông đành đem cặp kính cho ông lão quét sân. Ông lão quét sân tuy chẳng cận thị, song đã quen với kính, nên rất vui lòng đeo cặp kính ấy.

- Bông-giua! – Ippolit Matveevich vừa thả chân xuống đất vừa tự chào bản thân mình. “Bông-giua” có nghĩa là Ippolit Matveevich thức dậy với tâm trạng sảng khoái. Nếu khi tỉnh giấc mà ông thốt ra hai tiếng “gút-mooc-gen” thì có nghĩa là lá gan hơi đau, và năm mươi hai tuổi đầu không phải chuyện đùa, vì thời tiết hôm nay ẩm ướt.

Ippolit Matveevich xỏ cặp giò khẳng khiu vào chiếc quần có từ thời trước thế chiến, thắt nút ống quần ở chỗ mắt cá chân, rồi thả đôi bàn chân vào đôi ủng mềm, ngắn cũn cỡn, mũi vuông. Năm phút sau, Ippolit Matveevich thắng xong chiếc ghi-lê màu trắng, điểm các ngôi sao bạc và chiếc vét-tông kẻ ô nhiều màu. Phủi khỏi mái tóc bạc của mình những hạt nước bám vào trong lúc rửa mặt, Ippolit Matveevich giận giữ ngọ ngoạy cặp ria, do dự lấy tay xoa xoa chiếc cằm vừa cạo râu, dùng bàn chải lướt nhẹ trên mái tóc màu nhôm cắt ngắn, mỉm cười cung kính và ra đón bà mẹ vợ - bà Kladia Ivanovna đang bước vào trong.

- Eppole-et – tiếng bà mẹ vợ vang như sấm – đêm qua tôi nằm mê ghê quá.

Chữ “” được phát âm theo kiểu tiếng Pháp.

Ippolit Matveevich nhìn mẹ vợ từ trên xuống dưới. Chiều cao của ông lên đến một trăm tám mươi lăm centimet, và từ độ cao ấy, ông dễ dàng cư xử với bà nhạc bằng thái độ coi thường.

Kladia Ivanovna nói tiếp:

- Tôi mê thấy con Mari quá cố hiện ra với mái tóc bù xù và thắt chiếc dây lưng vàng.

Giọng nói nổ to như đại bác của bà Kladia Ivanovna là rung bần bật cái chùm đèn bằng gang, chụp bằng thủy tinh.

- Tôi lo quá. Chỉ sợ xảy ra chuyện gì thì khổ.

Mấy tiếng cuối cùng phát ra mạnh đến nỗi mớ tóc trên đầu Ippolit Matveevich toe dạt về mấy phía liền. Ông nhăn mặt mà nói rành rọt.

- Chẳng sao đâu, ma-măng ạ. Ma-măng đã trả tiền nước tháng này chưa?

Thì ra tiền nước chưa trả. Giày cũng chưa lau chùi. Ippolit Matveevich không ưa bà mẹ vợ của mình. Kladia Ivanovna là kẻ đần độn, và tuổi tác của bà không cho phép hy vọng rằng đến lúc nào đó bà sẽ trở nên thông minh hơn. Bà keo kiệt đến tột bực. và chỉ có cái nghèo của Ippolit Matveevich mới không để cho thứ tình cảm ấy lan rộng ra. Giọng nói của bà mạnh và đậm đặc tới mức Ri-sớt Tâm Sư phải ghen tị, mặc dù như đã biết, tiếng hét của Tâm Sư phải khiến bầy ngựa khuỵu chân xuống. Ngoài ra, cái đáng sợ nhất là Kladia Ivanovna nằm mê. Đêm nào bà cũng nằm mê. Bà mê thấy những cô gái thắt dây lưng, những con ngựa đóng đai vàng, những bà lao công chơi đàn hạc, những người Arkhanghen mặc áo tu-lúp đêm đêm vác mỏ đi canh, những đôi que đan tự chúng nhảy nhót trong phòng và phát ra những tiếng rên não nề. Bà Kladia Ivanovna đúng là một mụ già rỗng tuếch. Thêm vào tất cả các khoản ấy, phía dưới mũi bà lại nổi lên một túm râu, và mỗi sợi râu giống hệt một cái chổi cạo râu.

Ippolit Matveevich hơi bực mình bước ra đường.

Lão thợ đóng quan tài Bejentruc khoanh hai tay đứng tựa vào khung cửa trước cơ ngơi lụn bại của lão. Vì những sáng kiến kinh doanh của lão bị phá sản một cách có hệ thống, vì liên tiếp nhiều năm đưa vào cơ thể một loại nước uống cháy bỏng ruột gan, cặp mắt lão vàng ệch như mắt mèo và lúc nào cũng bốc lửa ngùn ngụt. Trông thấy Ippolit Matveevich, lão nói to liếng thoắng:

- Kính chào vị khách quý! Chúc mừng ông buổi sáng tốt lành!

Ippolit Matveevich lịch sự khẽ nhấc chiếc mũ bẩn thỉu trông như trái đu đủ lên.

- Xin phép hỏi ông sức khỏe cụ nhạc thế nào ạ?

- Mr… mr… mr… - Ippolit Matveevich hầm hừ trong miệng, nhún đôi vai thẳng và đi tiếp.

- Cầu mong cho ông mạnh khỏe nhé – Bejentruc cay đắng nói, - bạn bè hồi này làm ăn thua lỗ quá trời!

Đoạn lão khoanh tay trước ngực, tựa lưng vào khung cửa.

Đến cổng văn phòng mai táng “Nimfa”, Ippolit Matveevich lại bị giữ chân một lát.

“Nimfa” có 3 ông chủ. Họ lộn xộn cúi chào Ippolit Matveevich và đồng thanh thăm hỏi sức khỏe bà mẹ vợ của ông.

- Vẫn khỏe, khỏe, Ippolit Matveevich đáp – Chả sao cả! Đêm qua bà già nằm mê gặp một cô gái tóc vàng bù xù. Nằm mơ ấy mà.

Ba ông chủ “Nimfa” đưa mắt nhìn nhau, thở dài rõ to.

Tất cả những câu chuyện ấy khiến Ippolit Matveevich đến sở hơi muộn, và trái với lệ thường, lúc ông làm việc, thì chiếc đồng hồ treo tường phía trên treo khẩu hiệu “Làm xong việc hãy về” đã chỉ mười giờ kém năm.

Vì Ippolit Matveevich dáng người cao, đặc biệt vì bộ ria của ông, mà mọi người ở sở gọi ông là Matsist, mặc dù Matsist thật ra không hề có ria.

Ippolit Matveevich lấy trong ngăn kéo bàn ra một cái gối nhỏ bằng nỉ xanh, đặt xuống ghế, trông cao hơn ba người đồng sự của mình một chút. Ippolit Matveevich không sợ bệnh trĩ, chỉ sợ mòn đũng quần nên phải sử dụng gối nỉ xanh.

Có hai người trẻ tuổi – một đàn ông và một cô gái – e lệ theo dõi cử chỉ của viên công chức xô viết. Người đàn ông mặc chiếc áo Véc-tông sợi bông, hoàn toàn bị ức chế vì không khí công vụ, vì mùi mực alijarin, vì chiếc đồng hồ đang thở dồn dập nặng nề, và nhất là vì khẩu hiệu nghiêm trang “Làm xong việc hãy về”. Mặc dầu người đàn ông chưa bắt đầu công việc của mình, xong đã muốn ra về rồi. Anh ta cảm thấy cái công việc mà vì nó anh ta phải tới đây, quá ư nhỏ bé, không đáng làm bận tâm một công dân chững chạc tóc bạc như Ippolit Matveevich. Riêng Ippolit Matveevich cũng hiểu rằng, công việc của khách kia là nhỏ bé, có chờ đợi cũng chẳng sao, bởi vậy, sau khi mở cặp giấy No2 và lấy bàn chải phủi bụi, ông chúi đầu vào mớ giấy tờ. Cô gái mặc chiếc áo Jac-két dài, có đính giải ruy băng màu đen lấp lánh, thì thầm gì đó với người bạn đường, đoạn cô thấy nóng người lên vì xấu hổ, cô bèn từ từ tiến về phía Ippolit Matveevich.

- Đồng chí ơi, - Cô nói - ở đây chỗ nào …

Anh đàn ông mặc áo vét- tông thở dài nhẹ nhỏm và, - bất ngờ với chính mình, - bổng thốt lên:

- Khai ….

Ippolit Matveevich chăm chú nhìn thanh sắt chắn ngang chỗ cặp trai gái đang đứng.

- Sinh hay tử?

- Khai giá thú ạ, - anh đàn ông nói và bối rối nhìn quanh. Cô gái đỏ mặt. Công việc trót lọt rồi. Ippolit Matveevich bắt tay vào việc với sự khéo léo của nhà ảo thuật. Bằng nét chữ của một ông già, Ippolit Matveevich ghi tên đôi vợ chồng kia vào mấy cuốn sách dày, nghiêm trang căn dặn mấy người làm chứng – cô gái phải chạy ra mời họ vào – ông thở rất lâu và nhẹ vào con dấu vuông, rồi hơi nhỏm dậy, đóng dấu vào hai tấm thẻ căn cước nhàu nát. Sau khi nhận hai rúp của hai vợ chồng mới cưới và trao hóa đơn cho họ, Ippolit Matveevich vừa nói vừa cười khẩy: “Cước phí làm lễ đây” – đoạn đứng thẳng người dậy, theo thói quen ưởn ngực ra (hồi trước ông vẫn mang áo nịt ngực để chỉnh hình). Những tia sáng mặt trời màu vàng đọng thành vệt to trên hai vai ông như gù vai. Dáng điệu ông buồn cười, nhưng long trọng lạ lùng. Hai mắt kính lồi của chiếc kính kẹp mũi phát ra thứ ánh sáng trắng tựa đèn pha. Cặp vợ chồng đứng như hai con cừu non.

- Này anh chị, - Ippolit Matveevich tuyên bố ngạo nghễ - cho phép tôi chúc mừng hai anh chị, như ngày xưa vẫn nói, nhân dịp hôn thú hợp pháp. Rất, rất vui mừng được nhìn cảnh những người trẻ trung như hai anh chị khoác tay nhau đi tới lý tưởng vĩnh cửu. Rất chi là vui mừng!

Đọc xong bài diễn văn ấy, Ippolit Matveevich bắt tay cặp vợ chồng mới, rồi ngồi xuống, hài lòng về bản thân mình, ông tiếp tục đọc các thứ giấy tờ để trong chiếc cặp No2.

Ở bàn bên cạnh, các đồng sự chấm bút vào lọ mực kêu cạch cạch.

Một ngày làm việc yên tĩnh bắt đầu. Không một ai đến quấy rầy bàn đăng ký khai tử và kết hôn nữa. Nhìn qua cửa sổ thấy rõ thành phố co ro vì giá lạnh mùa xuân đang vội vã tản về nhà mình. Đúng giữa trưa, con gà trống ở hợp tác xã “Cày và Búa” cất tiếng gáy. Chẳng ai ngạc nhiên về điều đó. Sau đấy vang lên tiếng động cơ phành phạch, lọc xọc. Từ đường phố Guberski đùn ra một cụm khói dày đặc màu tím. Tiếng động cơ to dần. Lát sau trong khói hiện ra đường nét chiếc ô tô Gos No1 của ủy ban hành chính thị trấn, với cái két nước nhỏ xíu và cái mui xe cồng kềnh. Chiếc xe chao đảo trong bùn, chạy xuyên qua quảng trường Staropan rồi ngật ngưỡng mất hút trong khói độc hại. Mấy nhân viên còn đứng rất lâu bên cửa sổ để bình luận về sự việc vừa xảy ra và đặt nó vào mối liên hệ với khả năng tinh giảm biên chế. Ít phút sau đó, thấy lão thợ Bejentruc thận trọng đi qua chiếc cầu gỗ. Suốt ngày lão lân la khắp thị trấn để thăm dò xem có ai chết hay không.

Ngày làm việc sắp hết. Ở tháp chuông màu vàng pha trắng bên cạnh, người ta đang kéo chuông hết sức bình sinh. Cửa kính rung bần bật. Từ nóc tháp chuông, lũ quạ tóe ra, lượn vòng trên quảng trường rồi bay đi. Bầu trời buổi chiều như đóng băng lại phía trên quảng trường vắng ngắt.

Ippolit Matveevich đã đến lúc ra về. Tất cả nhưng gì có ra đời trong ngày hôm nay đều đã ra đời và đã được ghi vào những cuốn sổ dày. Hết thảy những người muốn kết hôn đều đã khai giá thú và cũng được ghi vào những cuốn sổ dày. Và tai hại thay cho cánh thợ làm quan tài là chẳng có trường hợp nào báo tử cả. Ippolit Matveevich xếp hồ sơ lại, cất vào ngăn kéo chiếc gối nỉ, dùng lược chải ria cho toe rộng và đang sắp sửa ra về với mơ ước được ăn món súp nóng bỏng miệng thì cửa văn phòng mở toang và trên ngưỡng xuất hiện lão thơ săn Bejentruc.

- Chào quý khách – Ippolit Matveevich mỉm cười – có chuyện gì đấy?

Tuy bộ mặt đáng sợ của lão thợ ngời ngời sáng trong ánh hoàng hôn đang buông xuống, song lão ta không thể thốt nên lời.

- Sao? – Ippolit Matveevich hỏi nghiêm trang hơn.

- Cái thứ của nợ của bọn “Nimfa” mà gọi là hàng hóa được ư? – lão thợ săng lầm bầm – Làm sao bọn nó có thể làm vừa lòng người mua kia chứ? Mỗi chiếc quan tài đến bao nhiêu là gỗ…

- Cái gì? – Ippolit Matveevich hỏi.

- Thì bọn “Nimfa” ấy mà… Cả ba gia đình bọn nó sống nhờ vào một cửa hàng tí tẹo đó. Thành thử gỗ không ra gỗ, mộng xộc xệch, trang trí xấu xí, đúng là đồ bỏ. Còn cửa hàng của tôi là một hãng sản xuất thành lập từ năm một ngàn chín trăm linh bảy. Áo quan của tôi thì hết ý, không chê vào đâu được, ai cũng thích…

- Lão làm sao thế, điên hả? – Ippolit Matveevich hỏi cộc lốc và tiến ra cửa – Lão đã trở nên lẩm cẩm vì suốt đời chỉ quanh quẩn bên đống quan tài.

Bejentruc nhường lối cho Ippolit Matveevich bước ra, đoạn bám sát gót ông, người cứ run vì sốt ruột.

- Hồi còn hãng “XIN MỜI” thì đúng là không một hãng nào, ngay cả ở thành Tyer có thể địch nổi lối trang trí hoa văn của họ thật! Còn bây giờ, đúng là đồ bỏ. Xin nói thẳng là không tìm đâu ra món nào tốt hơn hàng của tôi.

Ippolit Matveevich giận giữ ngoảnh lại, hầm hầm nhìn Bejentruc một giây và rảo bước nhanh hơn. Tuy ở nhiệm sở hôm nay không có chuyện gì khó chịu xảy ra với ông; nhưng lúc này ông cảm thấy tương đối bực mình.

Ba ông chủ “Nimfa” vẫn đứng trước cửa hàng của họ trong tư thế hệt như Ippolit Matveevich đã thấy họ sáng nay. Tựa hồ từ bấy đến giờ họ chưa hề nói với nhau một lời, nhưng vẻ mặt họ thay đổi hẳn, vẻ thỏa mãn bí ẩn long lanh trong đáy mắt họ chứng tỏ họ mới biết được một cái gì đấy khá hệ trọng.

- Tôi xin ba mươi hai rúp thôi.

Ippolit Matveevich nhăn mặt, đi nhanh hơn.

- Nợ trả dần cũng được – Bejentruc bồi thêm.

Còn ba ông chủ văn phòng “Nimfa” thì chẳng nói gì. Họ im lặng bám gót Ippolit, liên tục ngã mũ két ra và cúi chào lịch thiệp.

Cuối cùng, nổi đóa lên vì đám thợ quan tài theo như đĩa đói, Ippolit chạy lên bậc thềm nhanh hơn thường lệ, chùi bùn vội vã ở từng bậc tam cấp và bước vào nhà với cảm giác thèm ăn cao độ. Từ trong phòng đi ngược ra là cha Fedor, cố đạo của nhà thờ Flou và Lavr, người hừng hực hơi nóng. Tay phải khẽ nâng tà áo thụng và chẳng buồn để ý đến Ippolit Matveevich, cha Fedor lao thẳng ra cửa.

Ippolit Matveevich lập tức nhìn thấy vẻ sạch sẽ thừa thải, tình trạng lộn xộn mới, đập ngay vào mắt, trong việc bố trí mấy thứ đồ gỗ ít ỏi trong phòng và ngửi thấy một mùi thuốc xộc lên mũi. Từ trong phòng bước ra Kuznetsova, kỹ sư canh nông, chị láng giềng của Ippolit. Chị ta thì thào, tay xua xua:

- Bà già gay hơn trước, bà vừa xưng tội xong. Anh đừng giậm ủng mạnh.

- Tôi có giậm ủng đâu – Ippolit đáp – Có chuyện gì thế chị?

Madam Kuznetsova bậm môi và chỉ tay sang căn phòng thứ hai:

- Đau tim đột ngột.

Rồi nhắc lại những lời rõ ràng của người khác mà chị ta thích có lẽ vì ý nghĩa xâu xa của chúng, chị ta nói thêm:

- Không loại trừ khả năng kết cục bi thảm. Suốt ngày hôm nay tôi chưa rãnh được phút nào. Buổi sáng tôi sang đây mượn chiếc cối xay thịt, thấy cửa mở toang, trong bếp chả có ai, phòng này cũng thế, tôi tưởng bà Kladia Ivanovna đi mua bột về làm bánh ngọt. Bà định ăn đã lâu. Bột bây giờ, anh biết đấy, nếu không mua trước…

Có lẽ Madam Kuznetsova sẽ còn kể chán về khoản bột mì, về nạn đắt đỏ, về chuyện chị tìm thấy bà Kladia Ivanovna nằm ngất lịm bên bếp lò, nếu từ phòng bên không vọng ra một tiếng làm chói tai Ippolit Matveevich. Ông vội vàng đưa bàn tay hơi cứng làm dấu thánh và bước vào phòng bà nhạc.
Hết chương 1. Xem tiếp chương 2: MADAM PETUKHOVA LÌA ĐỜI

(1) Tên một bộ trưởng trong chính phủ lâm thời của Kerenski năm 1917
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 2
MADAM PETUKHOVA LÌA ĐỜI

Kladia Ivanovna nằm ngửa, tay mặt gối dưới đầu. Đầu bà đội chiếc mũ trùm màu mận chín, đã có thời là mốt, vào cái thời mà các bà đội mũ “santekler” và mới học nhảy tập tọe điệu tăng-gô Achentina.
Vẻ mặt Kladia Ivanovna long trọng, nhưng hoàn toàn không thể hiện điều gì cả. Đôi mắt nhìn lên trần.
-Kladia Ivanovna ! – Ippolit gọi
Bà mẹ vợ động đậy môi rất lẹ, nhưng thay vì những âm thanh như lệnh vỡ đã quen với cái tai của Ippolit, ông chỉ nghe thấy tiếng rên khe khẽ, thanh thanh tới mức khiến ông mủi cả lòng. Một giọt nước mắt trong suốt bỗng chảy ra và bò như thủy ngân trên mặt.
-Kladia Ivanovna – Ippolit lại gọi, - Ma-măng làm sao thế?
Nhưng ông vẫn không được trả lời. Bà già nhắm mắt vào và hơi nghiêng mình sang một bên.
Chị kỹ sư canh nông nhẹ bước vào phòng và kéo tay Ippolit đi ra như người ta lôi trẻ con đi tắm rửa.
-Bà cụ chợp mắt một chút đấy. Bác sĩ dặn để bà cụ nằm yên. Còn anh bạn thân mến, anh hãy cầm đơn thuốc này ra hiệu thuốc và hỏi xem mỗi cái túi đựng nước đá giá bao nhiêu?
Ippolit vâng lời Madam Kuznetsova trong mọi chuyện vì cảm thấy chị ta hơn hằn mình trong những chuyện như thế này.
Chạy đến hiệu thuốc cũng xa đây, Ippolit nắm tờ đơn thuốc trong tay như một cậu học trò và chạy vội ra phố.
Trời đã gần như tối hẳn. Trên nền hoàng hôn đang tắt, nổi lên thân hình òi ọp của lão thợ săng Bejentruc. Lão đứng tựa lưng bên cổng, đang ngoạm bánh mì với hành. Ngay cạnh đấy, ba ông chủ văn phòng “Nimfa” ngồi xổm ăn cháo kiều mạch đựng trong một cái chậu gang, vừa ăn vừa mút thìa chùn chụt. Trông thấy Ippolit, cánh thợ làm quan tài đứng thẳng dậy như những người lính. Bejentruc nhíu vai khó chịu, chìa tay về phía bọn cạnh tranh, bầm bẩm:
-Bọn họ cứ quẩn dưới chân, đồ của nợ!
Ở giữa quảng trường Statropan, cạnh bức tượng bán thân nhà thơ Giukovski với dòng chữ khắc trên bệ “Thi ca là thượng đế trong những ước mơ thiêng liêng của đất”, người ta đang đàm luận sôi nổi quanh cái tin Kladia Ivanovna ốm nặng… Ý kiến chung của tốp người tụ tập tại đấy tựu trung ở chổ “tất cả chúng ta rồi đều ở đó” và “trời cho rồi trời lấy”
Tay thợ cắt tóc “Pie và Konstantin” thích nhắc đến với cái tên “Andrei Ivanovich” lập tức không bỏ lỡ cơ hội bày tỏ hiểu biết của mình về lĩnh vực y học mà anh ta thu lượm được từ tạp chí “Tia lửa nhỏ” – xuất bản ở Matxcova.
-Khoa học hiện đại, - Andrei Ivanovich nói, - đã vươn tới cái bất khả. Chẳng hạn một khách hàng mọc mụn ở cằm. Trước kia chuyện này dẫn đến hoại huyết, còn bây giờ ở Matxcova, người ta bảo, chả biết thật hay không, rằng mỗi khách hàng vào hiệu phải có chổi cạo râu riêng đã được sát trùng.
Các vị công dân thở dài thườn thượt,
-Chắc cậu Andrei bịa thêm ra…
-Làm quái gì có chuyện cửa hiệu chuẩn bị cho mỗi vị khách một cái chổi cao râu riêng? Nói phét!
Prusis, nguyên là dân vô sản lao động trí óc, giờ làm chủ quán, thậm chí nổi nóng:
-Xin lỗi, Andrei Ivanovich, ở Matxcova, theo tài liệu thống kê dân số gần đây nhất, có hơn hai triệu người phải không nào? Nghĩa là cần có hơn hai triệu cái chổi cạo râu ư? Độc đáo quá chừng.
Câu chuyện đã đến lúc găng và có quỷ mới biết sẽ ra sao, nếu ở cuối phố Osyp không hiện ra Ippolit Matveevich.
-Lại chạy ra hiệu thuốc. Chắc là nguy kịch.
-Bà lão khó mà sống nổi. Không phải bổng dưng Bejentruc cứ chạy nháo lên khắp thị trấn.
-Thế bác sĩ bảo sao?
-Bác sĩ bác siếc gì! Họ làm cho người khỏe mạnh thành ốm yếu thì có!
“Pie và Konstantin” từ lâu đã muốn thông báo về đề tài y học bèn lên tiếng, mắt ngó quanh sợ sệt:
-Bây giờ toàn bộ sức mạnh là ở huyết cầu tố.
Nói xong câu ấy, “Pie và Konstantin” im bặt.
Những người khác cũng im lặng, ai nấy theo kiểu mình suy nghĩ về sức mạnh thần bí huyết cầu tố.
Khi trăng lên và ánh sáng bàng bạc của nó rọi vào bức tượng bán thân nhỏ xíu của Giukovski, thì ở phía sau lưng bức tượng đồng có thể đọc rõ một câu chửi tục viết bằng phấn.
Lần đầu tiên câu chửi tục ấy xuất hiện ở lưng bức tượng ngày 15 tháng 6 năm 1897, vào ngay cái đêm hôm khánh thành đài kỷ niệm. Và dù cảnh sát thời Sa Hoàng cũng như công an sau này cố gắng đến mấy, song câu chửi tục hễ được xóa đi, lại xuất hiện ngay sau đó.
Trong các ngôi nhà gỗ có cửa trổ ra phía ngoài, những chiếc ấm Xamova đã sôi lên như hát. Đang là giờ ăn tối. Các vị công dân không muốn phí thời gian vô ích nữa, họ tản về các nhà. Gió bắt đầu thổi.
Trong khi đó Kladia Ivanovna đang hấp hối. Lúc thì bà lão đòi uống nước, lúc thì bảo rằng bà cần đứng dậy và đi lấy đôi giày cao cổ của Ippolit mà bà mới gửi người ta chữa chổ hỏng. Lúc thì phàn nàn không khí nhiều bụi quá đến chết sặc, theo lời bà, lúc thì đòi đốt tất cả các ngọn đèn lên.
Ippolit đã thấm mệt vì hồi hộp, đang đi đi lại lại trong phòng. Ông nghĩ đến những chuyện tang gia khó chịu sắp phải lo. Ông nghĩ rằng sắp phải vay tiền tạm ứng ở quỹ trương trợ, phải đi mời cha cố và phải trả lời thư chia buồn của họ hàng. Để gạt bớt những ý nghĩ ấy, Ippolit bước ra thềm. Thợ làm săng Bejentruc đang đứng dưới ánh trăng màu xanh lá cây.
-Thưa ngày Ippolit Matveevich, ngày bảo làm thế nào ạ? – Bejentruc áp chiếc mũ vào ngực, hỏi.
-Bảo, bảo cái gì, - Ippolit cau có đáp.
-Cái hãng “Nimfa” ấy, đồ của nợ, hàng của họ chả ra cái thá gì đâu! – Bejentruc lo ngại.
-Quỉ tha ma bắt lão đi! Tôi ngán lão đến tận cổ rồi!
-Dạ, không sao. Ý tôi muốn hỏi ngài về chuyện trang trí hoa văn. Ngài đặt cỗ quan tài thượng hạng chứ ạ? Xin được lĩnh ý ngài.
-Không hoa văn hoa vẻ gì sất. Một chiếc quan tài gỗ bình thường. Hiểu chưa?
Bejentruc đặt ngòn tay trỏ lên môi, tỏ rằng lão đã hiểu rõ tất cả, đoạn lão quay người chuồn thẳng, tay cố giữ cho chiếc mũ quả dưa hấu ngay ngắn, trong lúc thân hình lão hơi lảo đảo. Bấy giờ Ippolit mới biết rằng lão thợ săng đang say tí bỉ.
Ippolit lại cảm thấy bực bội lạ lùng. Ông chưa tưởng tượng được ông sẽ bước vào căn phòng trống trải, rác rưởi sao đây. Ông nghĩ rằng, cùng với chái chết của bà mẹ vợ, sẽ mất đi những tiện nghi nho nhỏ và nhưng thói quen mà ông đã cố gắng tạo ra cho mình sau cái ngày cách mạng tước mất của ông những tiện nghi và thói quen to tát. “Mình nên lấy vợ chăng? – Ippolit nghĩ bụng – Lấy ai nhỉ? Lấy cháu gái tay tưởng ty công an, lấy Varvara Xtepanovna, lấy em gái của Prusis chăng? Hay là thuê một cô gái giúp việc? Không ổn! chỉ tổ mệt người với pháp luật. Đã thế còn thiệt thòi nữa”.
Cuộc đời lập tức trở nên tối tăm trước con mắt của Ippolit. Đầy tức giận và khinh bỉ mọi thứ trên thế gian, ông quay vào nhà.
Kladia Ivanovna đã thôi mê sảng. Bà lão nằm cao hẳn người trên mấy cái gối, nhìn Ippolit bước vào bằng con mắt hoàn toàn tỉnh táo và ông con rể cảm thấy con hơi nghiêm khắc là đằng khác.
-Ippolit, - bà lão thì thào rõ to từng tiếng – Anh hãy ngồi xuống cạnh tôi. Tôi phải kể cho anh biết…
Ippolit miễn cưỡng ngồi xuống, chăm chú nhìn bộ mặt hốc hác của bà mẹ vợ. Ông cố gượng cười và nói một câu gì đó để khích lệ. Nhưng nụ cười hóa ra man dại, còn từ ngữ thì tìm mãi không được. Từ cổ họng Ippolit chỉ phát ra một tiếng ậm ọe và khó nghe.
-Ippolit, - bà nhạc nhắc lại, - anh có nhớ bộ bàn ghế ở phòng khách nhà ta ngày xưa không?
-Bộ bàn ghế nào? – Ippolit hỏi với thái độ cảnh giác chỉ bộc lộ ra trước những người ốm thập tử nhất sinh.
-Cái bộ bằng vải hoa Ăng-lê ấy…
-À! ở nhà tôi chứ gì?
-Phải, ở Stargorot…
-Nhớ, tôi vẫn nhớ y nguyên… Một đi-văng, một tá ghế và một cái bàn tròn có sáu chân. Loại đồ gỗ thượng hạng, kiểu Ham…. Thế tại sao Ma-măng lại nhớ đến nó?
Nhưng Kladia Ivanovna không sao trả lời được. Mặt bà bắt đầu bị phủ một lớp màu vàng nhợt. Chẳng hiểu vì sao Ippolit cũng thấy sợ hết cả hồn. Ông nhớ lại rõ ràng căn phòng khách ở biệt thự cũ của mình, bộ bàn ghế bằng gỗ hồ đào chân cong cong được bày biện một cách cân đối, cái sàn nhà lau chùi bóng như sáp, chiếc dương cầm màu mâu cổ kính và những khung ảnh màu đen hình bầu dục treo trên tường, ***g những bức ảnh người nhà làm quan từ ngày xưa, chụp theo kiểu Dagguerr (1).
Đến đây Kladia Ivanovna nói bằng một giọng thản nhiên như gỗ.
- Tôi đã giấu các viên kim cương của mình vào đệm ngồi của một chiếc ghế.
Ippolit liếc nhìn bà già.
- Kim cương nào? – Ippolit hỏi như máy, nhưng lập tức sực nhớ - Chả lẽ hôm khám nhà, họ không lấy đi sao?
- Tôi đã giấu kim cương vào một chiếc ghế, - bà già bướng bỉnh nhắc lại.
Ippolit đứng bật dậy, nhìn bộ mặt lạnh như đá được ánh đèn dầu rọi sáng của bà Kladia Ivanovna và hiểu rằng bà ta không nói mê.
- Kim cương của bà! Ippolit hét lên và sợ hãi sức mạnh giọng nói của mình. – Cất vào ghế! Ai dạy bà làm như vậy? Tại sao bà không đưa cho tôi?
- Làm sao có thể đưa cho anh, trong khi anh vung phí hết cả tài sản cơ nghiệp của con gái tôi? – Bà già giận dữ, thong thả nói.
Ippolit Matveevich ngồi xuống rồi lại đứng dậy. Quả tim của ông ồn ào dắt từng luồng máu đi khắp cơ thể. Có cái gì đó bắt đầu bung bung trong đầu.
-Nhưng bà đã lấy kim cương ra chưa? Những viên kim cương ấy bây giờ ở đâu chứ?
Bà già lắc đầu.
-Không kịp lấy. Anh còn nhớ chứ, chúng ta bất ngờ phải chạy trốn một cách gấp gáp. Kim cương vẫn ở trong chiếc ghế kê ở giữa lò sưởi và cây đèn cầy có chụp bằng sứ.
-Thật là điên rồ! Bà giống hệt con gái bà! Ippolit Matveevich gào to.
Rổi chẳng ngại gì mình đang ở bên giường người hấp hối, ông gạt chiếc ghế đánh rầm một cái và bước loạn lên trong phòng. Bà mẹ vợ không buồn để ý đến Ippolit.
-Nhưng bà phải tưởng tượng những chiếc ghế ấy có thể rơi vào tay ai chứ? Hay là bà nghĩ rằng chúng vẫn yên vị ở phòng khách nhà tôi và chờ bà về lấy lại món báu vật của bà?
Bà già không hề hé miệng.
Cơn giận làm cho chiếc kính của ông nhân viên phòng hộ tịch tuột khỏi mũi, bay vèo qua đầu gối, rơi đánh bịch xuống sàn.
-Sao? Giấu một số kim cương trị giá bảy mươi ngàn rúp vào đệm ghế! Và không biết ai sẽ ngồi lên chọc nó ư?...
Kladia Ivanovna nấc lên và ngã cả người xuống mép giường. Cánh tay bà khoát một nữa vòng tròn, cố túm lấy Ippolit, nhưng lại rơi ngay xuống cái chăn bông chần màu tím.
Ippolit rú lên, chạy bổ sang nhà bên cạnh.
-Hình như bà cụ chết rồi!
Chị kỹ sư canh nông nghiêm trang làm dấu thánh, rồi không giấu vẻ tò mò cùng với anh chồng rậm râu cũng là kỹ sư canh nông, chạy sang nhà Ippolit. Còn Ippolit thì ngơ ngẩn đi về phía vườn hoa thị trấn.
Trong lúc hai kỹ sư canh nông cùng với người đầy tớ gái của họ thu dọn căn phòng của người quá cố, Ippolit đi lang thang trong vườn hoa, thỉnh thoản lại vấp vào các ghế đá và cứ tưởng những cặp trai gái bị lạnh cóng với tình xuân là các bụi cây.
Có quỷ sứ mới biết đầu óc Ippolit đang nghĩ đến cái gì. Âm vang dàn đồng ca của dân Digan, những giàn nhạc của các bà ngực nở liên tục chơi bản tăng-gô-a-máp. Ippolit tưởng tượng cảnh mùa đông ở Matxcova và con ngựa ô mình dài hục hặc với những người bộ hành. Ippolit hình dung nhiều thứ: nào món quần lót màu da cam đắt tiền đến mức đáng yêu, nào sự trung thành của bọn đầy tớ, nào khả năng đi thành phố Can-nơ một chuyến.
Ippolit đi chậm lại và bỗng vấp vào thân xác lão thợ săng Bejentruc. Lão kê chiếc áo tu-lúp nằm ngủ chắn ngang con đường nhỏ trong vườn hoa. Bị cú huých, lão tỉnh giấc, hắt xì hơn một tiếng và đứng ngay dậy.
-Ngài k hỏi lo, ngài Ippolit ạ - lão nói hăng hái như tiếp tục câu chuyện đã bắt đầu từ lâu – Cái cỗ quan tài nó thích được trang trí lắm.
-Kladia Ivanovna chết rồi, - người đặt hàng báo tin.
-Cầu trời phù hộ cho vong linh bà cụ, - Bejentruc nói – vậy là bà cụ đã nhắm mắt xuôi tay…. Các cụ già bao giờ chết đi, bọn thợ chúng tôi cũng gọi là nhắm mắt xuôi tay… Hoặc gọi là đã xuôi. Tùy theo khổ người. Khổ người nhỏ như bà nhạc của ngài thì gọi là nhắm mắt xuôi tay. Còn khổ người dài hơn một chút, nhưng gầy hơn thì gọi là xuôi mà thôi…
-Ai quy định cách gọi như thế?
-Bọn thơ đóng quan tài chúng tôi ấy mà. Chẳng hạn như ngài là một người đàn ông chững chạc, cao và gầy. Ví thử nói dại mồm dại miệng, ngài chết đi thì gọi là mặc áo ván. Còn một nhà buôn mà chết thì chúng tôi bảo kẻ đó đã hai năm mươi. Một gã lao công hoặc một tay nông phu chết thì gọi là đi đời nhà ma hoặc ngủm củ tỏi. Nhưng những ông quan hoặc nhân viên soát vé xe lửa chết thì gọi là chầu trời.
Sửng sốt về cái lối phân biệt là lùng của con người ấy, Ippolit hỏi:
-Thế khi lão chết thì đám thợ bạn gọi là gì?
-Tôi là kẻ hèn mọn. Lúc ấy người ta sẽ bảo: “Bejentruc đi ngủ với giun”.
Rồi nghiêm trang nói thêm:
-Kẻ hèn mọn như tôi không thể chầu trời, lên thiên đàng hoặc từ trần được… Thế còn cái khoản cỗ hòm thì ngài định sao ạ? Chả lẽ ngài chỉ đặt một cái áo quan tầm thường thôi ư?
Nhưng Ippolit lại đang chìm đắm trong những ước mơ chói lọi, không trả lời và đi tiếp. Bejentruc bám theo sau, bấm đốt ngón tay tính toán điều gì đó, miệng lẩm bẩm như thường lệ.
Trăng đã lặn từ lâu. Trời lạnh buốt như giữa mùa đông. Những vũng nước phủ một lớp băng mỏng dễ vỡ. Ở phố mang tên đồng chí Guberski, nơi hai người bước ra, gió đang vật lộn với những tấm biển quảng cáo. Từ phía quảng trường Staropan, một chiếc xe cứu hỏa do mấy con ngựa gầy kéo tới.
Mấy anh lính cứu hỏa đội mũ cứu hỏa, ngồi thòng chân ra ngoài, đầu lắc qua lắc lại, cố hát bằng giọng ồ ồ như vịt đực:
Vẻ vang thay đội trưởng của ta
Vinh quang thay đồng chí Nasosov! (2)

-Họ đi dự đám cưới tay Colca, con trai ông đội trưởng cứu hỏa về đấy. – Bejentruc thản nhiên nói và xoa xoa bộ ngực dưới lớp áo tu-lúp. – Vậy lẽ nào ngài đặt một chiếc quan tài không có hoa văn trang trí gì?
Vừa vặn đến lúc này Ippolit đã quyết định xong hết thảy. “Mình sẽ đi bằng được – ông quả quyết – Bấy giờ sẽ biết tay nhau”. Và trong các ước mơ kim cương, ông cảm thấy bà mẹ vợ có vẻ đáng yêu hơn trước. Ông bèn quay lại bảo Bejentruc:
-Đồ quỷ! Thì làm đi! Trang trí hoa văn cho đẹp vào nhé.
Hết chương 2, xem tiếp chương 3 “TẤM GƯƠNG CỦA KẺ TỘI ĐỒ”
(1)Là phương pháp chụp ảnh đầu tiên do L.J Dagguerr (người Pháp) phát minh vào những năm 30 của thế kỷ XIX - Ảnh được chụp trên một tấm kim loại có phủ một lớp bạc Iodua rất nhạy cảm với các tia sáng.
(2)Nasosov có nghĩa là bơm.
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 3
TẤM GƯƠNG CỦA KẺ TỘI ĐỒ

Sau khi rửa tội cho Kladia Ivanovna hấp hối, vị cha cố đạo của nhà thờ Flor và Lavr, cha Fedor Vostrikov, bước ra khỏi nhà Ippolit Matveevich trong tâm trạng phấn chấn cực độ và suốt từ đó về nhà mình, cha cứ vừa đi vừa lơ đễnh nhìn tứ phía, miệng thì mỉm cười bẽn lẽn. Sắp tới nhà, sự lơ đễnh của cha lên đến mức suýt nữa cha đâm đầu vào chiếc ô tô Gos No1 của ủy ban hành chính thị trấn. Sau khi thoát khỏi lớp khói màu tím do chiếc xe ghê gớm phụt ra, cha Fedor rơi vào trạng thái cực kỳ bối rối, và mặc dù cha đã đứng tuổi và có địa vị đáng kính, song đoạn đường còn lại cha vẫn vượt nốt bằng lối chạy nửa nước kiệu.

Vợ của cha, bà Katerina Aleksandrovna đã dọn bữa ăn. Những ngày không phải làm lễ vào buổi tối, cha Fedor thích ăn sớm bữa tối. Nhưng bây giờ, sau khi cởi mũ và chiếc áo thụng vải mềm ấm áp, cha vội vàng vọt ngay sang buồng ngủ, và điều khiến bà Katerina ngạc nhiên là cha khóa trái cửa lại và khe khẽ hát bài “Xứng đáng được ăn” ở trong ấy.

Vợ của cha ngồi xuống mép ghế và sợ hãi lẩm bẩm:

-Lại nghĩ ra trò gì mới rồi đây…

Linh hồn hăng hái của cha Fedor không biết, không bao giờ biết đến sự yên tĩnh. Kể cả hồi cha còn học ở trường dòng lẫn khi cha lớn lên ở chủng viện. Sau khi từ chủng viện chuyển sang học ba năm ở khoa luật trường đại học tổng hợp, năm 1915 cha Fedor Vostrikov sợ bị động viên vào lính nên quay trở về chủng viện. Chao được phong chức linh mục và được cử về thị trấn N. Và suốt các giai đoạn chạy theo công danh trong giới tu hành và dân sự, cha Fedor luôn luôn là người mê mãi làm giàu.

Cha Fedor mơ ước có một nhà máy làm nến riêng của mình. Say sưa và luôn bị dằn vặt về những cái máy làm nến, cha đã sáng chế nhiều dự án khác nhau, mà nếu thực hiện chúng, cha sẽ có một số tư bản cố định và lưu động để mua đứt một cái nhà máy ở Xamara đã lọt vào mắt cha từ lâu.

Các tư tưởng lớn của cha Fedor nảy sinh đột ngột, và cha bắt tay ngay vào việc. Cha Fedor bắt đầu bằng việc nấu xà phòng giặt, cha nấu hàng mấy chục ký, nhưng xà phòng – mặc dù có hàm lượng mỡ rất cao, vẫn không có bọt, đã thế lại đắt hơn loại xà phòng “búa và cày” những ba lần. Bị xếp xó lâu ở góc nhà, xà phòng nhũng toẹt ra và bốc mùi thối đến mức mỗi lần bà Katerina Aleksandrovna đi ngang qua, bà đều phải bưng mặt sụt sùi. Ít lâu sau đành hốt đi dổ xuống hố chôn.

Đọc trong một tạp chí chăn nuôi nào đó, nó nói rằng thịt thỏ mềm như thịt gà, rằng thỏ đẻ ra đẻ và nuôi thỏ sẽ đem lại cho người chủ tằn tiện những khoản lời không nhỏ, cha Fedor lập tức nuôi nữa tá thỏ, và chỉ hai tháng sau con chó Nerka vì sợ bầy sinh vật tai to đầy lông nhung nhúc ngoài sân, đã bỏ nhà đi mất. Dân chúng đáng nguyền rủa ở thị trấn N tỏ ra cực kỳ bảo thủ và họ hoàn toàn nhất trí với nhau (một điều hiếm thấy) không chịu mua thỏ của cha Fedor. Khi ấy, cha Fedor sau khi bàn bạc với vợ bèn quyết định tô điểm cho thực đơn của mình những con thỏ mà thịt chúng tươi ngon hơn cả thịt gà tơ. Từ thỏ, người ta làm món thỏ quay, thịt viên rán, cốt-lét, nấu súp và được đưa ra bữa tối thành món thỏ nguội hoặc nóng. Món này chẳng có gì có hại cả. Cha Fedor tính rằng nếu chuyển sang chế độ hoàn toàn ăn bằng thịt thỏ, thì mỗi tháng cả gia đình ăn không hết quá bốn chục con trong khi mỗi tháng bầy thỏ đẻ thêm chín mươi con, và con số ấy sẽ tăng theo cấp số nhân.

Vợ chồng cha Fedor bèn quyết định nấu các xuất ăn trưa đem bán. Suốt buổi tối cha Fedor dùng bút chì hóa học, viết trên những tờ giấy kẻ ô được cắt xén cẩn thận, mấy câu thông báo về việc bán các xuất ăn trưa ngon tuyệt, nấu bằng loại bơ lấy từ sữa bò tươi hảo hạng. Tờ thông báo bắt đầu bằng ba chữ thật to “Rẻ và ngon”. Bà Katerina nấu một đĩa hồ đầy, và khuya hôm ấy cha Fedor đem dán các tờ thông báo lên tất cả các cột điện thoại và các bức tường ở gần trụ sở xô viết.

Ý đồ mới đã đem lại thành công rực rỡ. Ngay hôm đầu tiên đã có bảy người mua, trong đó có Bendin làm ở văn phòng thị đội và Kozlov là trưởng ban tiện nghi của thị trấn (nhờ nỗ lực to lớn của Kozlov, cách đây ít lâu một di tích cổ duy nhất ở thị trấn là cổng vòm chiến thắng dựng từ thời Elizaveta đã được phá bỏ, vì theo lời ông ta, nó cản trở giao thông đường phố). Cả bảy người đều khoái món ăn trưa ấy. Ngày thứ hai khách hàng tăng lên mười bốn người. Người nhà của cha lột da thỏ không kịp. Suốt một tuần lễ công việc làm ăn hết sức phát đạt, khiến cha Fedor đã tính chuyện khai trương một xưởng thuộc đồ lông bằng phương pháp thủ công, thì xảy ra một sự cố hoàn toàn ngoài dự kiến.

Hợp tác xã “Cày và Búa” nghỉ bán hàng ba tuần lễ nhân dịp kiểm kê, đã mở cửa trở lại, và nhân viên cửa hàng ì ạch lăn một thùng bắp cải thối ra chiếc sân sau, chung với sân sau của cha Fedor để chôn. Ngửi thấy mùi bắp cải độc đáo, bầy thỏ chen nhau chạy ra hố, và sáng hôm sau thì những con vật gặm nhấm đáng yêu ấy lăn ra chết. Chỉ sau ba giờ đồng hồ, hai trăm bốn mươi con thỏ bố mẹ và bầy con đông không đếm xuể đã chết sạch.

Cha Fedor điếng người, suốt hai tháng không muốn làm ăn gì cả, và mãi đến bây giờ cha mới được lên giây cốt tinh thần, sau khi từ nhà Ippolit Matveevich trở về và đóng cửa buồng ngủ lại, ngồi lì trong đó khiến bà vợ kinh ngạc. Tất cả chứng tỏ rằng cha Fedor mới nảy ra một tư tưởng lớn xâm chiếm toàn bộ tâm trí của cha.

-Này, bà nó đưa cái kéo cho tôi, nhanh lên nào – cha Fedor giục.

-Ông không ăn tối hay sao?

-Được rồi, lát nữa.

Cha Fedor chộp lấy chiếc kéo, lại đóng cửa vào và bước tới chỗ chiếc gương treo ***g khung đen hơi bị xây xát.

Cạnh chiếc gương treo một bức tranh dân gian cổ nhan đề “Tấm gương của kẻ tội đồ” in từ một phiến đồng và được tô màu khéo léo bằng tay. “Tấm gương của kẻ tội đồ”, đặc biệt có tác dụng an ủi cha Fedor sau đợt nuôi thỏ thất bại. Bức tranh dân gian mô tả rõ ràng tính trần tục của mọi thứ dưới trần gian. Phần trên cùng là bốn bức vẽ, với bốn phụ đề bằng chữ Sla-vơ rắm rối đa nghĩa để an ủi lòng người: “Xin cầu nguyện, kham gieo hạt, Iafet nắm quyền, tử thần làm chủ vạn vật”. Tử thần được miêu tả với lưỡi hái và chiếc đồng hồ cát có cánh. Trông thần chết như được lắp từ các bộ phận giả, dùng để chỉnh hình, nó đứng dạng chân trên một quả đồi trơ trụi. Dáng dấp của nó chứng tỏ rõ rệt rằng vụ thỏ chết chỉ là chuyện vặt vãnh.

Lúc này cha Fedor thấy thích cái hình “Iafet nắm quyền” hơn: một người to béo, giàu có, râu dài ngồi oai vệ trên ngai vàng.

Cha Fedor mỉm cười, chăm chú ngắm mình trong gương, bắt đầu xén tỉa bộ râu tử tế của mình. Râu rơi lả tả xuống sàn, chiếc kéo kêu tanh tách. Năm phút sau thì cha Fedor hiểu rằng cha hoàn toàn không biết xén râu. Bộ râu của cha bị lệch sang một bên trông thiếu đứng đắn, thậm chí đáng ngờ là đằng khác.

Loay hoay trước gương một lát nữa, cha Fedor nổi giận, gọi bà vợ vào, chìa chiếc kéo, nói:

-Bà nó hãy giúp tôi một tay. Tôi không sao giải quyết nổi cái mớ râu này.

Bà Katerina sửng sốt tới mức giấu cả hai tay sau lưng.

-Ông làm gì thế này hở ông? – Cuối cùng bà thốt lên.

-Không làm gì cả. Tôi xén râu đây. Bà hãy giúp tôi. Chỗ này hình như không được cân thì phải…

-Lạy chúa, - bà Katerina chạm vào râu tóc chồng. – Ông ơi, ông định bắt chước bọn cách tân hay sao đấy?

Cha Fedor thích thú thấy câu chuyện xoay sang hướng mới.

-Tại sao tôi không bắt chước bọn cách tân hở bà? Bọn cách tân không phải là người ư?

-Dĩ nhiên cũng là người, - bà Katerina khổ sở tán thành, - họ cũng ăn cũng mặc…

-Thì tôi cũng sẽ ăn mặc như họ.

-Và cũng nhún nhẩy nữa chứ?

-Và cũng nhún nhẩy.

-Ông còn sức lắm đấy mà chả nhún với nhẩy. Ông thử soi gương xem nào.

Quả vậy, từ trong gương nhìn ra là một bộ mặt xăng xái, với cặp mắt đen, bộ râu lởm chởm và hàng ria dài một cách vô lý.

Hai vợ chồng cha Fedor cắt xén ria, đưa nó về một tỷ lệ cân đối với râu.

Tiếp đó, bà Katerina càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha Fedor tuyên bố rằng ngay tối hôm nay cha phải lên đường giải quyết một việc và sai bà vợ phải đến gặp ông em trai mượn cái áo bành tô cổ lông cừu và chiếc mũ đít vịt màu nâu trong một tuần.

-Tôi không đi đâu sất! – bà Katerina nói và khoác òa lên.

Cha Fedor mất đứt nửa giờ đi đi lại lại trong phòng, nói năng lung tung và đe dọa bà vợ bằng bộ mặt vừa đổi khác của mình. Bà Katerina chỉ hiểu nổi một điều: Cha Fedor bổng dưng dở chứng, định đội chiếc mũ đít vịt ngớ ngẩn, bỏ bà để đi đâu đó có trời mới biết.

-Sao lại bỏ bà, - cha Fedor nói – tôi không bỏ bà đâu, một tuần sau tôi sẽ trở về. Mỗi người phải có việc riêng của mình chứ? Phải thế không nào?

-Không phải thế, - bà Katerina trả lời.

Cha Fedor mặc dù quen nói năng lịch sự với người thân, lần này buộc phải đấm tay xuống bàn. Tuy cha đấm tay cẩn thận và vụng về, vì trước đây không bao giờ làm thế, song bà Katerina cũng phát hoảng, phải vội vã choàng khăn lên đầu chạy đến nhà ông em trai mượn áo mũ cho chồng.

Còn lại một mình, cha Fedor nghĩ ngợi giây lát, buộc miệng: “Đàn bà kể ra cũng vất vả”, rồi cha kéo chiếc hòm nhỏ bịt đai sắt dưới gầm giường ra. Những chiếc hòm này ta thường thấy chỉ các chiến sĩ hồng quân mới có. Mặt hòm bọc một lớp giấy bồi, vẽ chân dung Budionui hoặc vẽ cảnh bãi biển Batumi có ba cô gái đẹp nằm hớ hênh trên bãi cát. Chiếc hòm nhỏ của cha Fedor không làm cha hài lòng vì không vẽ chân dung Budionui hay ba cô gái mỹ nữ ở Batumi. Bà Katerina nhét vào đây tất cả những bức ảnh cắt từ tạp chí “Biên niên sử chiến tranh năm 1914” có cả ảnh “Chiếm lĩnh pháo đài Peremusel”“Phân phát áo ấm cho hạ sĩ quan ngoài tiền duyên” cùng đủ thứ linh tinh.

Cha Fedor lôi các cuốn sách đặt trên cùng ra, gom toàn bộ các số tạp chí “Người hành hương Nga” trong năm 1903, cuốn “Lịch sử phân biệt”dày cộm, và cuốn “Người Nga ở Italia” ngoài bìa vẽ ngọn Vezuvi phun lửa. Cha sục tay xuống tận đáy hòm và lôi lên cái mũ trùm đầu cũ kỹ của bà vợ. Nheo mắt vì mùi băng phiến từ chiếc hòm xộc lên, cha Fedor xé toạc dải đăng-ten buộc mũ và lôi ra một cái túi vải nặng chịch. Trong túi cất giữ hai mươi đồng tiền vàng “mỗi đồng 10 rúp”, là tất cả những gì còn lại sau các hành động kinh doanh của cha Fedor.

Bằng một động tác quen thuộc, cha Fedor, vén tà áo thụng, đút cái túi tiền vàng, vào bên trong. Sau đó cha bước lại chổ tủ cơm-mốt, mở hộp đựng kẹo lấy năm chục rúp tiền giấy, gồm những đồng ba rúp và năm rúp. Trong hộp còn lại hai chục rúp nữa.

-Đủ để làm ăn thôi, - cha quyết định.
Hết chương 3, xem tiếp chương 4 “CHẤT THƠ CỦA NHỮNG CHUYẾN ĐI XA”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 4
CHẤT THƠ CỦA NHỮNG CHUYẾN ĐI XA

Một giờ trước khi chuyến tàu thư buổi tối chạy đến, cha Fedor mặc chiếc áo bành tô ngắn, bên dưới gối một chút, tay xách chiếc lẳng đen, đứng xếp hàng bên quầy vé và thỉnh thoảng lo ngại nhìn về phía cửa ra vào. Cha sợ bà vợ cứ chạy ra ga tiễn cha, mặc dù cha đã dặn đi dặn lại không được làm như vậy, vì nếu thế thì gã Prusis đang ngồi trong quán nhậu và thết bia anh cán bộ tài chính sẽ nhận ra cha mất. Cha Fedor ngạc nhiên và ngượng ngùng nhìn chiếc quần sọc của mình cứ lồ lộ trước mắt tất cả bọn người trần tục.

Việc lên tàu mang tính chất hỗn loạn thường tình, bởi đây là chuyến tàu ngồi. Hành khách còng lưng dưới những chiếc bao tổ bố cứ chạy nháo từ đầu tàu đến đuôi tàu và ngược lại. Cha Fedor ngạc nhiên chạy theo họ. Cũng như tất cả mọi hành khách, cha nói năng nhỏ nhẹ với nhân viên gác toa và, cũng như tất cả hành khách, cha chỉ sợ người bán vé đưa cho cha chiếc vé “dỏm”. Phải đến khi cha đã được cho vào toa, cha mới trở lại thái độ yên tâm quen thuộc, thậm chí thấy vui vui.

Đầu máy kéo còi hết cỡ và con tàu chuyển mình, đưa cha Fedor đến phương trời xa thẳm để lo một vụ bí mật, khó hiểu nhưng hứa hẹn rõ ràng những lợi lộc to lớn.

Tình trạng xa nhà ra đi kể cũng thú vị. Một công dân bình thường nhất khi lâm vào tình trạng ấy, cũng cảm thấy hơi bận rộn và nhanh chóng biến thành hoặc hành khách, hoặc người nhận hàng, hoặc một tay đi tàu lậu vé, làm cho cuộc sống kém phần tươi sáng và gây phiền nhiễu cho các đội soát vé, đội kiểm tra cửa ga.

Từ lúc con người bước vào tình trạng xa nhà, nôm na là từ lúc có mặt ở nhà ga, bến tàu, sinh hoạt của anh ta thay đổi hẳn. Ngay bây giờ những Ermak Timofeevich đeo tạp dề trắng, ngực đính những miếng kim loại mạ kềnh sẽ chạy lại chỗ anh ta và cung kính chộp lấy hành lý để xách giùm. Từ phút ấy người đó không thuộc về mình nữa. Anh ta là hành khách và bắt đầu thực hiện mọi nghĩa vụ của hành khách. Những nghĩa vụ ấy vô cùng phức tạp, nhưng khá dễ chịu.

Hành khách ăn rất nhiều. Người dân ban đêm thường là không ăn, nhưng hành khách thì ăn cả vào ban đêm. Anh ta ăn món gà rán là món khá đắt, ăn món trứng lacooc là món hại dạ dày, rồi ăn món quả ô liu. Khi đoàn tày chạy qua ghi, vô số những cái ấm trà trên bàn, trên giá kêu lạch xạch và những con gà quay không có chân trong bọc giấy báo khẽ nhảy rình rịch.

Nhưng hành khách không hề để ý điều đó. Họ đang mãi kể chuyện tiếu lâm. Cứ sau ba phút cả toa lại ồ lên tiếng cười. Rồi bắt đầu im lặng, và một giọng nói mượt mà như nhung kể giai thoại sau đây:

-Một lão già Do thái hấp hối. Vơ con đứng bên giường. “Monhia có ở đây không?” – Lão già hỏi phều phào. “Dạ có”. “Cô Brana đã đến chưa?” – “Dạ rồi” – “Còn bà đâu, tôi không thấy?” – “Dạ, bà đứng kia”. “Còn Isak?”, “Isack đây ạ” – “Còn bọn trẻ?” “Tất cả chúng con đều đủ mặt” – “Thế đứa nào trông hàng”

Lập tức tiếng cười nổ ra làm cho những ấm pha trà bắt đầu rung lạch xạch và những chú gà quay rung bần bật trên giá. Nhưng hành khách không để ý điều đó. Trong tim mỗi người chứa sẳn một giai thoại thiêng liêng đang nóng ruột chờ đến lượt mình bật ra. Một người huých khuỷu vào mạng mỡ hai vị ngồi bên cạnh, năn nỉ gào to “Có câu chuyện thế này nhé” và vất vả lắm mới lôi cuốn được sự chú ý của mọi người:

-Một gã Do thái về nhà và lên giường nằm cạnh vợ. “Bỗng gã nghe có tiếng gầm gừ dưới gầm giường. Gã bèn thò tay xuống đấy, hỏi: “Mày đấy à, chó Toni?. Toni liếm tay và đáp: “Vâng, tôi đây”.

Hành khách cười ngặt nghẽo, bóng đêm phủ kính ruộng đồng, đầu máy tung ra những đóm lửa nhỏ ngoằn nghèo, những cái bảng tín hiệu lắp kính chiếu sáng màu xanh lướt qua phía trên đoàn tàu.

Tình trạng xa nhà thú vị thật! Những chuyến tàu viễn hành nặng nề dài dằng dặc chạy đến khắp nẻo. Con đường mở rộng khắp nơi. Đèn xanh bật lên, cứ việc thẳng tiến. Tàu tốc hành chạy đến Murmansk. Từ ga Kursk, tàu “K số một” uốn mình ở khúc ghi, vọt về phía Tiflis. Tàu Viễn Đông chạy vòng bờ hồ Baican lao thẳng về phía Thái Bình Dương.

Chất thơ của những chuyến đi xa quyến rũ con người. Nó đã bứt cha Fedor ra khỏi thị trấn N yên tĩnh và ném cha không biết đến xó xỉnh nào. Nguyên đô thống quý tộc Ippolit Matveevich Vorobjaninov, hiện là nhân viên phòng hộ tịch cũng đang bồn chồn trong dạ và suy tính có quỷ biết chuyện gì.

Tàu chở mọi người đi qua khắp vùng đất nước. Người thì vượt hàng vạn kilomet để tìm cô vợ chưa cưới mặt mày rạng rỡ. Kẻ thì săn đuổi báu vật, bỏ cả nhiệm sở và chạy đến Aldan như một cậu học trò. Có người thì ngồi ở nhà, vừa thích thú xoa bụng vừa đọc các văn phẩm của bá tước Salias để giá 1 rúp bây giờ bán có năm cô-phết (1)

Việc chôn cất Kladia Ivanovna được lão thợ đóng quan tài Bejentruc nhận lo liệu chu tất. Hôm sau, Ippolit Matveevich đến nhiệm sở. Thực hiện nhiệm vụ của mình, ông tự tay khai tử bà Kladia Ivanovna Petukhova, năm mươi chín tuổi, nội trợ, không đảng phái, thường trú ở thị trấn N và xuất thân là dòng dõi quý tộc ở tỉnh Stargorot, sau đó Ippolit xin nghỉ phép hai tuần lễ theo luật quy định, nhận 41 rúp tiền tạm ứng, chia tay với các bạn đồng sự và ra về. Trên đường về nhà, ông ghé qua hiệu thuốc. Dược sĩ Leopold Grigorjevich mà người nhà và bạn hữu gọi tắt là Lifa, đứng sau quầy hàng đánh véc-ni màu đỏ, xung quanh là các hộp sữa đựng thuốc độc đang cố gán cho cô em vợ ông đội trưởng cứu hỏa loại “kem Ango chống rám nắng và các vết tàn nhang, làm da trắng tuyệt đối”. Thế nhưng cô em vợ ông đội trưởng cứu hỏa lại đòi mua loại “phấn Rashel” màu vàng, làm cho thân thể có màu rám nắng mà thiên nhiên không thể tạo nổi. Song hiệu thuốc lại chỉ có kem Ango chống rám nắng thôi, thành thử cuộc cạnh tranh giữa hai loại mỹ phẩm đối chọi nhau kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Dầu sao Lifa cũng chiến thắng, bán được cho em vợ ông đội trưởng cứu hỏa một hộp sáp bôi môi và một lọ phun chống rệp.

-Ông muốn mua loại gì ạ?

-Thuốc tóc.

-Để nhuộm tóc hay làm cho tóc rụng?

-Sao lại để cho tóc rụng! – Ippolit nói – Để nhuộm tóc.

-Để nhuộm tóc thì có loại “Titanik” tuyệt lắm, mua loại của hải quan ấy. Hàng lậu mà. Đã nhuộm rồi thì dù nước nóng hay nước lạnh, bọt xà phòng hay dầu hỏa đều không thể làm cho nó phai màu. Cứ gọi là đen rưng rức. Mỗi lọ dùng được nữa năm, chỉ tốn ba rúp 12 cô-phết. Xin bán cho ông như một khách hàng quen.

Ippolit Matveevich xoay xoay lọ thuốc “Titanik” hình vuông trong tay, thở dài nhìn cái nhãn hiệu và đặt tiền lên quầy.

Về đến nhà, Ippolit bắt đầu dội thuốc “Titanik” lên đầu và ria mép với cảm giác ghê tởm. Mùi hôi hám tỏa ra khắp phòng.

Sau bữa ăn trưa, mùi hôi càng gớm ghiếc hơn, râu ria quánh lại với nhau, vất vả lắm mới chải ra được. Màu đen rưng rức hóa ra hơi xanh, nhưng không còn đâu thời gian để nhuộm tóc lần thứ hai nữa.

Ippolit rút rừ trong cái tráp của bà mẹ vợ ra tờ giấy ghi các vật quý mà ông tìm thấy hồi trước, ông đếm tất cả số tiền mặt hiện có, khóa cửa phòng, giấu chùm chìa khóa vào túi sau, lên chuyến tàu tốc hành No7 và đi đến thành phố Stargorot.
Hết chương 4, xem tiếp chương 5 “VUA MÁNH”
(1) Một rúp bằng 100 cô-phết.
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 5
VUA MÁNH
Vào lúc mười một giờ rưỡi, từ phía tây bắc, từ trong làng Chmarovka, có một gã trẻ tuổi trạc hăm bảy hăm tám đi vào thành phố Stargorot. Một chú bé ăn mày chạy theo hắn.

-Chú ơi! – Thằng bé gọi to, - cho cháu ít hào đi chú!

Gã trẻ tuổi lấy quả táo ấm từ trong túi ra cho thằng bé, nhưng nó vẫn cứ bám lấy hắn. Hắn bèn dừng lại, nhìn thằng bé bằng con mắt giễu cợt và nói nhỏ:

-Có lẽ phải đưa thêm cho mày chìa khóa căn phòng để tiền chắc?

Chú bé ăn mày hiểu ra toàn bộ tính vô căn cứ của yêu sách nó đưa ra, nên đành lui bước.

Gã trẽ tuổi nói dối: Hắn không có tiền, cũng chẳng có căn phòng nào để ngã lưng, cũng chẳng có chìa khóa mở cửa phòng. Đến áo bành-tô hắn cũng không có nốt. Hắn vào thành phố trong bộ côm-plê tã màu xanh. Cái cổ lực lưỡng của hắn quàng mấy vòng khăn len, chân xỏ giày cao cổ bằng da nai màu vàng. Trong giày không có bít tất. Một tay hắn cầm cái thước đo góc.

-“Ô-ti-ri-rim, Ô-ti-ri-a!” - hắn khẽ hát khi tới gần chợ trời.

Ở đây hắn sẽ tìm được nhiều việc làm. Hắn chen lấn vào đám đông con buôn đang trì néo khách, hắn chìa cái thước đo góc ra và bắt đầu gào to bằng giọng nghiêm chỉnh:

- Ai mua thước đo góc khô-ông? Bán thước đo góc giá hời đây! Giảm giá cho cơ quan và phụ nữ đây!

Cung mãi vẫn không đẻ ra cầu. Các phái đoàn phụ nữ, các bà nội trợ quan tâm nhiều hơn đến những mặt hàng khan hiếm, nên tụ tập ở các quầy thủ công nghiệp. Một trinh sát của ban hình sự Stargorot đã hai lần lướt qua chỗ gã bán thước đo góc. Nhưng vì cái thước đo góc chẳng giống chút nào cái máy đánh chữ của văn phòng Trung tâm ép dầu bị mất cắp hôm qua, cho nên tay trinh sát kia thôi phóng tầm mắt về phía gã trẻ tuổi.

Đến trưa, cái thước đo góc được bán cho một anh thợ nguội với giá ba rúp.

-Thước đo tự động đấy – gã trẻ tuổi nói lúc trao hàng cho chủ mới – tha hồ mà đo cái chỗ ấy…

Được giải thoát khỏi cái thứ dụng cụ đo lường tinh khôn, gã trẻ tuổi vui vẻ ăn trưa ở tiệm ăn “Ngon hết ý” rồi đi tham quan thành phố. Hắn đi hết phố Xô viết, ra quảng trường Hồng Quân (trước gọi là quảng trường đại Puskin), tắt qua phố Kooperativ và lại có mặt ở phố Xô viết. Nhưng đây không phải là cái phố Xô viết mà hắn đi lúc nãy; ở thành phố này có những hai đường phố mang tên Xô viết. Ngạc nhiên về chuyện đó, gã trẻ tuổi bước sang phố Sự kiện Lenxki (trước gọi là phố Denisov). Cạnh biệt thự hai tầng No28 có tấm biển đề:
C C C P
CỘNG HÒA LIÊN BANG NGA
PHÒNG BẢO ĐẢM XÃ HỘI SỐ 2
CÔNG TY BẢO HIỂM TỈNH STARGOROT


Gã trẻ tuổi dừng chân để xin lửa châm thuốc của một ông già lao công đang ngồi trên chiếc ghế kê cạnh cổng.

-Bố ơi – gã trẻ tuổi rít một hơi thuốc, hỏi, - thành phố của bố có lắm con gái không hở bố?

Ông già không chút ngạc nhiên.

-Trai nào có gái ấy – ông già sẳn sàng bắt chuyện.

-Cháu không dám hỏi gì nữa – gã trẻ tuổi nói nhanh.

Rồi ngay lập tức một câu hỏi mới được tung ra:

-Một biệt thự sang trọng thế này mà lại không có gái ư?

-Người ta đang đốt đuốc đi tìm bọn con gái ở thế giới bên kia cơ. Còn ở đây là nhà làm phúc, là trại dưỡng lão của các cụ bà về hưu.

-Cháu hiểu rồi. Nghĩa là những cô gái ra đời từ trước chủ nghĩa duy vật lịch sử phải công ạ?

-Đúng thế, đẻ hồi nào tức là ra đời hồi ấy.

-Thế cái nhà này là gì trước khi có chủ nghĩa duy vật hở bố?

-Trước khi nào?

-Nghĩa là ở chế độ cũ ấy mà?

-À, hồi còn chế độ cũ thì ông chủ của lão sống ở đây.

-Một tay tư sản à?

-Cậu là tư sản thì có. Đã bảo là của một ngài đô thống quý tộc.

-Nghĩa là một dân vô sản?

-Cậu là vô sản thì có! Đã bảo đó là một vị đô thống.

Câu chuyện với ông già lao động kém hiểu biết về cơ cấu giai cấp của xã hội có lẽ sẽ kéo dài không biết đến bao giờ nếu như gã trẻ tuổi không quả quyết ra tay.

-Bố ơi, bây giờ mà bố con ta làm vài chén rượu thì tuyệt.

-Cậu thết lão đi.

Cả hai kéo nhau đi chừng một giờ, lúc quay về ông già lao công đã trở thành người bạn chí cốt của gã trẻ tuổi.

-Bố cho con ngủ nhờ một đêm ở đây nhé – người bạn mới ngỏ lời.

-Cậu cứ sống ở đây suốt đời cũng được, nếu cậu là một người tốt.

Sau khi nhanh chóng đạt được mục đích chính của mình, vị khách lanh lẹ đi xuống căn hầm của ông già lao công, cởi đôi giày màu vàng và ngả mình xuống chiếc ghế dài nằm suy tính kế hoạch hành động cho ngày mai.

Gã trẻ tuổi tên là Ostap Bender. Về tiểu sử của mình, gả chỉ cho biết một chi tiết: “Cha tôi – hắn nói – quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ”. Con trai của vị quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ đã từng thay đổi nhiều ngành nghề. Cái tính cách sôi nổi cản trở hắn hiến trọn cuộc đời cho một công việc gì đó, đã luôn ném hắn đến những vùng khác nhau trong nước và hôm nay đưa hắn tới thành phố Stargorot, không bít tất, không chìa khóa, không nhà và không xu dính túi.

Nằm trong căn phòng ấm áp đến hôi hám của ông già lao công, Ostap Bender suy đi tính lại hai phương án tiến thân.

Có thể lấy nhiều vợ và thanh thản di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, mỗi lần cuỗm đi một chiếc vali mới đựng đầy những quý giá của cô vợ thường trực.

Cũng có thể ngay sáng mai đến ủy ban thiếu niên nhi đồng thành phố Stargorot đề nghị họ bán giúp bức tranh chưa vẽ nhưng đã hình dung rõ trong đầu nhờ một tư tưởng thiên tài – bức tranh nhan đề “Những người Bonsevich viết thư cho Sambetlen” dựa theo bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Repin “ Những người Zaporohe viết thư cho vua Thổ”. Nếu thành công, phương án ấy có thể đem lại cho hắn bốn trăm rúp.

Cả hai phương án đều đã được Ostap nghĩ đến trong thời gian hắn có mặt lần cuối ở Matxcova. Phương án kiếm nhiều vợ nảy sinh dưới ảnh hưởng câu chuyện về một vụ án đăng trên báo buổi chiều, kể rằng một gã đa thê chỉ bị ngồi tù có hai năm. Phương án No2 nảy ra trong óc Ostap Bender, khi hắn đi xem triển lãm của “Hội họa sĩ cách mạng Nga”, không phải mua vé vào cửa.

Nhưng cả hai phương án đều có thiếu sót. Muốn kếm nhiều vợ mà không sắm được bộ cánh đẹp màu lông chuột thì khó thắng lợi. Hơn nữa cần có ít ra mươi rúp để làm quen và nịnh đầm. Dĩ nhiên, cũng có thể cưới vợ trong bộ com-plê dã ngoại màu xanh lá cây, bởi lẽ sức lực và vẻ đẹp nam giới của Ostap Bender đã là tuyệt hảo đối với cô Tuyết, cô Nhung tỉnh lẻ. Nhưng theo cách nói của Ostap, đấy là “hạ sách thiếu tầm cỡ”. Chuện vẽ tranh cũng có thể gặp trục trặc về mặt kỹ thuật thuần túy. Liệu có tiện không nếu vẽ đồng chí Kalinin mặc áo thụng và đội mũ trắng, còn đồng chí Chichenrin thì cởi trần? Kể ra cũng có thể vẽ tất cả nhân vật đều mặc quần áo thông thường, nhưng thế thì không đúng với dụng ý ban đầu.

-Sẽ không thật ép-phê! - Ostap nói thành tiếng . Chợt hắn nhận ra rằng ông già lao công đang hăng hái nói điều gì đấy từ lúc nãy. Thì ra ông ta đang tưởng nhớ đến ông chủ cũ của mình.

-Ngài cảnh sát trưởng phải chào trước ông chủ của lão. Giả sử ngày đầu năm mới, lão chúc mừng ông chủ, ông ấy sẽ cho lão ba rúp… Ngày lễ phục sinh, giả sử lão chúc mừng ông chủ, ông ấy cũng cho ba rúp. Ngày lễ thánh nào của họ; ông ấy cũng cho tiền… Riêng cái khoản chúc mừng chủ lấy tiền, mỗi năm lão cũng đã kiếm được mười lăm rúp. Ông chủ còn hứa sẽ xin mề-đay cho lão. Ông bảo: “Ta muốn kẻ quét vườn nhà ta cũng được thưởng mề-đay”. Rồi ông chủ bảo lão: “Này Tikhon, cứ coi rằng ngươi đã có mề-đay…”.

-Sau đó bố có được thưởng thật không?

-Cậu cứ chờ đã nào… Ông chủ bảo: “Ta cần một kẻ quét vườn có mề-đay…”. Rồi ông chủ đi Xanh Pê-téch-pua lo việc đó. Lần thứ nhất chưa được. Các ngài quan lớn chưa muốn thế. “Sa hoàng đi công cán ngoại bang, ông chủ bảo lần này chưa xong”. Bảo lão cứ chờ. “Này Tikhon, ngươi chịu khó đợi ít lâu, nhất định ngươi phải có mề-đay”.

-Thế ông chủ của bố “đi tiêu” rồi phải không? – Ostap đột nhiên hỏi.

-Chả ai giết hay bắt ông ấy cả. Ông ấy tự bỏ đi đấy chứ. Ông ấy ở lại đấy làm quái gì với bọn lính quèn… Mà thời nay người ta có tặng mề-đay cho những người quét vườn không hả cậu?

-Có chứ! Con sẽ lo khoản đó cho bố.

Ông già lao công kính cẩn nhìn Ostap.

-Lão phải có mề-đay mới ổn. Cái nghề của lão nó như vậy.

-Ông chủ của bố bỏ đi đâu thế?

-Làm sao lão biết được. Người ta bảo ông ấy đi Pari.

-À! Bạch vệ dân di tản… Vậy ông ấy là Nga kiều phải không bố?

-Cậu là Nga kiều thì có… Người ta bảo ông ấy sang Pari. Biệt thự này được lấy cho các mụ già dưỡng lão… Dù ngày nào cũng chúc mừng các mụ ấy đi nữa, cũng không được một xu bố thí!... Ôi, giá còn ông chủ….

Đến lúc đó, cái chuông gỉ treo ngoài cửa kêu rẹt rẹt. Ông già quét vườn khặc khừ lê bước ra mở cửa và lùi lại trong tư thế cực kỳ bối rối.

Trên bục cửa hiện ra Ippolit Matveevich Vorobjaninov râu đen, tóc đen. Cặp mắt long lanh sáng gấp đôi dưới chiếc kính kẹp mũi.

-Trời ơi, ông chủ đây rồi – Tikhon reo lên sung sướng – Ngài từ Pari về.

Ippolit Matveevich lúng túng vì trong căn hầm có mặt người lạ, mà hai bàn chân không tất tím ngắt của người ấy mãi bây giờ ông mới nhìn thấy vì lấp mép bàn, đã định bỏ chạy, nhưng Ostap Bender nhanh nhẹn đứng bật dậy và rạp mình chào Ippolit.

-Đây không phải là Pari hoa lệ, nhưng cũng xin kính mời đại nhân quá bộ vào túp lều tranh của bố con tôi.

-Chào Tikhon – Ippolit buộc phải lên tiếng – Ta về đây hoàn toàn không phải từ Pari đâu, sao tự dưng lão lại nói như vậy?

Nhưng Ostap, với cái mũi dài cao quý đã đánh hơi thấy mùi thịt rán thơm phức, không để cho lão quét vườn kịp mở miệng.

-Hay lắm – hắn liếc mắt, nói – ông không phải từ Pari về. Dĩ nhiên, ông từ Kologri về thăm bà già quá cố của mình đấy thôi.

Vừa nói, hắn vừa kéo lão quét vườn ngơ ngác ra ngoài cửa trước khi lão hiểu rõ chuyện gì. Đến lúc tỉnh trí lại, lão chỉ có thể nghĩ ông chủ vừa từ Pari về, rằng lão, Tikhon, bị đẩy ra khỏi căn hầm và bàn tay trái của lão đang nắm chặt tờ bạc 1 rúp.

Sau khi đóng chặt cửa lại, Ostap quay về phía Ippolit Matveevich lúc ấy vẫn đang đứng giữa nhà và nói:

-Bình tĩnh, đâu vào đấy. Tôi là Ostap Bender! Chắc ông có nghe tên tôi chứ?

-Chưa bao giờ - Ippolit khó chịu trả lời.

-Làm sao ở pari có thể biết tên Ostap Bender được kia chứ? Ở Pari bây giờ có ấm không? Một thành phố hoa lệ. Bà chị họ của tôi lấy chồng bên ấy. Mới rồi chị ấy có gởi cho tôi một chiếc khăn lụa trong bức thư đảm bảo…

-Anh nói lung tung gì vậy? – Ippolit thốt lên – Khăn với khố nào? Tôi trở về đây không phải từ Pari, mà từ ….

-Hay, hay! Từ Morshanask chứ gì.

Ippolit chưa bao giờ gặp người trẻ tuổi hung hăng như Ostap thành thử ông cảm thấy sờ sợ.

-Thôi, tôi đi đây – ông nói.

-Ông đi đâu? Chẳng làm gì phải vội vàng. Cơ quan an ninh sẽ tự tìm đến ông.

Ippolit chưa biết trả lời ra sao. Ông cởi khuy áo choàng và ngồi xuống chiếc ghế dài, nhìn Ostap không mấy thân thiện.

-Tôi chưa hiểu ý anh – giọng Ippolit chùng hẳn xuống.

-Điều đó không đáng sợ. Ông sẽ hiểu ngay bây giờ. Một phút thôi.

Ostap xỏ đôi chân không bít tất vào giày, đi đi lại lại và nói:

-Ông vượt biên giới ngã nào? Qua Ba Lan? Qua Phần Lan? Qua Rumani? Chắc thú vị lắm. Tôi có một người quen mới vượt biên. Anh ta sống ờ Slavut, phía nước ta, còn cha mẹ vợ anh ta ở bên kia biên giới. Vợ chồng anh ta cãi nhau vì chuyện gia đình. Chả là cô ả hơi lẳng lơ. Ả bèn nhổ vào mặt chồng và bỏ trốn sang biên giới với cha mẹ. Anh chàng người quen của tôi ngồi nghĩ mấy ngày, thấy không ổn: “Chả ai nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa cả”. Anh ta quyết định làm lành với vợ. Đêm ấy anh ta vượt qua biên giới sang gặp bà nhạc. Ai ngờ bị công an biên phòng tóm được, bị kết án sáu tháng tù, bị đuổi ra khỏi công đoàn. Bây giờ người ta bảo vợ anh ta chạy từ bên kia về, con mụ ngốc ơi là ngốc, trong lúc anh chồng đang ngồi tù. Mụ ấy tiếp tế cho chồng… thế ông cũng vượt biên từ Ba Lan về àh?

-Thú thật – Ippolit ấp úng vì cảm thấy bất ngờ lệ thuộc vào gã trẻ tuổi mau mồm mau miệng, tự nhiên cản đường tìm kiếm kim cương của ông – thú thật tôi là công dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Tôi có thể đưa anh xem thẻ căn cước.

-Với trình độ in ấn của phương tây, làm một cái thẻ căn cước Liên Xô là trò con nít, giơ thẻ căn cước ra chỉ làm trò cười… Một tay người quen của tôi thậm chí còn in được cả đô la kia. Ông có biết làm giả đô la ở Mỹ khó như thế nào không? Giấy của nó, ông biết không, có những sợi lông đủ màu cơ. Phải rất rành kỹ thuật. Vậy mà người quen của tôi làm được đấy. Sau mới biết ông nội anh ta, một tay buôn ngoại tệ nổi tiếng, mua số đô la ấy ở Kiev và bị phá sản hoàn toàn, bởi vì dầu sao nó cũng chỉ là tiền giả. Vậy thì cái thẻ căn cước của ông cũng có thể làm hại ông đấy.

Ippolit bực mình: thay vì khẩn trương tìm kiếm kim cương, ông lại ngồi trong căn hầm hôi hám của lão quét vườn và nghe thằng cha xấc xược này xoen xoét những chuyện mờ ám của đám bạn thân hữu của hắn. Song ông vẫn không dám bỏ đi. Ông cảm thấy ngại ngùng tột độ khi nghĩ rằng gã trẻ tuổi này sẽ kể toang toang khắp thành phố rằng vị đô thống quý tộc đã trở về. Lúc ấy thì đi đứt, có thể bị tóm cổ như chơi.

-Dầu sao xin anh cũng chớ nói với ai rằng đã gặp tôi nhé – Ippolit van vỉ - Người ta có thể tưởng rằng tôi là Nga kiều thật.

-Thấy chưa! Gần với ý tôi rồi đấy! Trước hết là cái phần tích cực: có một Nga kiều về thăm quê hương. Phần tiêu cực: Ông ta sợ bị điệu lên sở công an.

- Nhưng tôi đã bảo anh hàng ngàn lần rằng tôi không phải ở nước ngoài về.

-Thế ông là ai? Ông tới đây làm gì?

-Tôi từ thị trấn N về đây có chút việc.

-Việc gì?

-Việc riêng.

-Vậy mà sau đó ông vẫn cứ khăng khăng ông không phải Nga kiều ư? … Một người quen của tôi cũng …

Tuyệt vọng vì những chuyện người quen của Ostap Bender, thấy rằng không thể ngắt lời gã trẻ tuổi này được nữa, đến nước này thì Ippolit đành khuất phục.

-Thôi được, - ông nói – tôi sẽ kể hết cho anh nghe.

“Suy cho cùng, không có trợ thủ cũng gay – Ippolit nghĩ bụng. – xem chừng, về khoản mánh mung, thằng cha này thuộc hạng tay tổ đây. Một kẻ như hắn chắc sẽ có ích cho mình.”
Hết chương 5, xem tiếp chương 6 “KHÓI KIM CƯƠNG”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 6
KHÓI KIM CƯƠNG

Ippolit bỏ chiếc mũ quả dưa nhọ nhem ra khỏi đầu, chải râu (mỗi khi chiếc lược chạm vào râu, từ đó lại bắn ta hàng loạt tia lửa điện, ho một tiếng, rồi kể cho Ostap Bender, gã khốn kiếp đầu tiên mà ông bắt gặp, tất cả những gì ông biết về món kim cương qua lời bà mẹ vợ quá cố.

Nghe xong, Ostap nhảy nhảy mấy cái, hướng mặt về phía cái bếp lò bằng sắt, khoái trá thốt lên:

-Băng đã trôi, thưa các ngài bồi thẩm! Băng đã trôi rồi!

Một giờ sau, cả hai chụm đầu vào nhau bên chiếc bàn nhỏ lung lay, cùng đọc bản danh sách dài liệt kê những vật quý giá đã có thời trang điểm các ngón tay, cổ, tai, ngực và tóc bà mẹ vợ. Ippolit chốc chốc lại sửa lại cái kính kẹp mũi không chịu đứng yên trên mũi, nhấn mạnh:

-Ba chuỗi ngọc… tôi nhớ rõ lắm. Hai chuỗi, mỗi chuỗi bốn chục hạt, một chuỗi to lắm, những một trăm mười hai hạt kia. Một cái vòng ngọc … Kladia Ivanovna bảo nó giá bốn ngàn rúp, quý hiếm lắm…

Tiếp đến các nhẫn: không phải là những ái nhẫn cưới to, thô và rẻ tiền, mà là loại nhỏ, thanh, có gắn các viên kim cương nguyên chất, trong veo. Rồi những đôi hoa tai nặng, lấp lánh có gắn mặt đá đỏ như lửa, những cái vòng đeo tay hình rắn lượn, vảy ngọc: một cái vòng Yermoir ngang giá thu hoạch một mẫu ruộng, một chuỗi ngọc trai chỉ hợp với túi tiền của một ngôi sao nhạc kịch, và cuối cùng là cái mũ miện đáng giá bốn mươi ngàn rúp.

Ippolit nhìn quanh, trong các góc tối của căn hầm bỗng bừng sáng nhấp nháng ánh kim cương. Khói kim cương lơ lững trên trần nhà. Các hạt ngọc lăn nhanh trên bàn và rơi xuống đất. Ảo ảnh báu vật làm chao đảo căn hầm hôi hám.

Ippolit Matveevich chỉ sực tỉnh và bớt xúc động vì tiếng nói của Ostap.

-Bộ đồ trang sức khá ăn ý. Tôi thấy đá quý đã được chọn đúng gu. Toàn bộ món báu vật này đáng giá bao nhiêu?

-Khoảng bảy mươi, bảy mươi lăm ngàn.

-Hừm… Nghĩa là bây giờ đáng giá một trăm năm mươi ngàn.

-Nhiều thế kia àh? – Ippolit sung sướng hỏi.

-Ít nhất cũng ngần ấy. nhưng thưa đồng chí Nga kiều thân mến từ Pari về, xin đồng chí hãy nhổ toẹt vào đám trang sức đó.

-Nhổ toẹt thế nào?

-Nhổ nước bọt thế này ngày, - Ostap trả lời – như người ta vẫn nhổ trước thời đại duy vật lịch sử ấy. Chẳng nước non gì nữa.

-Sao lại chẳng nước non gì?

-Thế đấy. Có bao nhiêu chiếc ghế?

-Một tá. Ở phòng khách.

-Món đồ gỗ trang trí phòng khách của ông chắc là thành tro trong bếp lò từ lâu rồi.

Ippolit kinh hoàng đến nỗi đứng bật dậy.

-Bình tĩnh, bình tĩnh, việc này để tôi lo liệu. Phiên họp tiếp tục. Tiện thể tôi với ông phải ký giao kèo với nhau đã.

Ippolit thở dốc ra, phải gật đầu đồng ý thay lời nói, Ostap bèn đặt điều kiện.

-Nếu tìm ra kho báu, trên tư cách là thành viên trực tiếp của hợp đồng và là người chỉ đạo kỹ thuật vụ này, tôi sẽ hưởng sáu mươi phần trăm, phần bảo hiểm xã hội ông có thể khỏi phải trả thay tôi. Với tôi thế nào cũng xong.

Ippolit Matveevich tái mặt.

-Như thế là ăn cướp giữa ban ngày.

-Thế ông định dành phần tôi bao nhiêu?

-À… a… a…, năm phần trăm à, à, mười phần trăm là cao nhất. Anh nên nhớ là ngần ấy đã lên tới mười lăm ngàn rồi!

-Ngoài ra ông không còn muốn gì hơn?

-Không?

-Có lẽ ông muốn tôi làm không công cho ông, rồi lại còn trao cho ông chìa khóa căn phòng để tiền nữa chăng?

-Vậy thì xin lỗi, - Ippolit nói giọng mũi – Tôi hoàn toàn đủ căn cứ để cho rằng một mình tôi cũng có khả năng hoàn thành công việc của mình.

-Ái chà! Vậy thì tôi xin lỗi, - Ostap tài ba phản đối – tôi cũng có thừa căn cứ để nói như Endi Takker, khẳng định rằng một mình tôi không thiếu khả năng hoàn thành xong xuôi công việc của ông.

Ippolit giận run người, hét lên:

-Đồ khốn nạn!

Ostap tỉnh bơ.

-Nghe đây, ngài Nga kiều từ Pari về, ngài có biết rằng các viên kim cương của ngài hầu như đã nằm gọn trong túi của tôi rồi hay không! Sở dĩ tôi còn quan tâm đến ngài là vì tôi muốn đảm bảo tuổi già của ngài đấy thôi.

Giờ thì Ippolit hiểu rằng, những ngón tay nào đang siết họng mình.

-Hai mươi phần trăm – ông cau có nói.

-Tôi ăn bằng gì, bằng không khí hả? – Ostap nói.

-Hai mươi lăm.

-Còn chìa khóa phòng?

-Như thế đã là ba mươi bảy ngàn rưỡi rồi!

-Chính xác như vậy để làm gì? Thôi thì năm mươi phần trăm. Ông một nửa, tôi một nửa.

Cuộc mặc cả tiếp tục, Ostap nhượng bộ thêm. Xuất phát từ lòng kính trọng cá nhân Ippolit, hắn đồng ý làm việc với bốn mươi lăm phần trăm.

-Sáu chục ngàn! Ippolit rên lên.

-Ông đê tiện quá – Ostap phản đối – ông quý tiền hơn mức cần thiết.

-Còn anh không quý tiền chắc? Ippolit đáp bằng tiếng nói của cây sáo.

-Tôi chả quý tiền.

-Thế anh lấy sáu chục ngàn làm gì?

-Về nguyên tắc phải lấy thôi.

Ippolit nghẹn họng.

-Thế nào? Băng đã trôi được chưa? – Ostap hỏi.

Ippolit nuốt giận chịu quy thuận.

-Trôi được rồi.

-Nào, ta hãy nghéo tay, hỡi vị đô thống “không quân”! Băng đã trôi! Có thể vào việc được rồi, thưa các ngài bồi thẩm.

Sau khi Ippolit tự ái vì biệt hiệu đô thống “không quân”, đòi Ostap phải xin lỗi và sau khi Ostap thỏa mãn yêu cầu ấy bằng cách gọi ông là thống chế, hai người ngồi xuống bàn phương án tác chiến.

Nữa đêm, lão quét vườn Tikhon bám cả hai tay vào các hàng rào và ép mình vào các cột đèn, lê bước dần về đến nhà. Hại thay cho lão, đêm nay lại chỉ có trăng non.

Trông thấy lão quét vườn cong gập người như cái lốp xe, Ostap thốt lên.

-Chà, người vô sản lao động trí óc, chuyên viên chổi cùn đã về.

Lão quét vườn hậm học trong cổ họng, nghe như tiếng xối nước cầu tiêu hùng hục giữa đêm khuya im vắng.

-Gần đúng ý tôi rồi đây, Ostap nói với Ippolit – Lão đầy tớ của ông vô giáo dục thật. Cho hắn có một rúp mà nốc lắm rượu như thế được ư?

-Được chứ - Bỗng nhiên lão Tikhon đáp.

-Nghe đây Tikhon, - Ippolit hỏi – Lão có biết các thứ đồ gỗ của ta bây giờ ở đâu không.

Ostap thận trọng dìu Tikhon để lời nói có thể thoát ra tự do từ cái miệng há hốc của lão. Ippolit căng thẳng chờ đợi. Nhưng từ miệng lão già kia, cái miệng khấp khểnh vài chiếc răng, chỉ phì ra mấy tiếng chói tai.

-Có – ó nga – ày ra – at - ất vui – u – ui !

Căn nhà hầm rộn lên và nồng nặc mùi hôi, mùi chua. Lão Tikhon ráng sức, gân cổ gào một bài ca, không bỏ sót câu nào. Lão cứ loạng choạng lúc bò, lúc quỳ, lúc lăn trong nhà. Lão đang vui quá chừng.

Ippolit hoàn toàn rối trí.

-Đành gác việc hỏi các nhân chứng đến mai vậy – Ostap nói.

-Ta đi ngủ cái đã.

Lão Tikhon đã lăn quay ra ngủ. Ostap và Ippolit khiêng lão , giống như cái tủ com-mốt, đặt lên chiếc ghế dài. Còn hai gã quyết định nằm chung trên chiếc giường của lão Tikhon. Bên trong áo vét, Ostap mặc chiếc sơ mi “cao bồi” kẻ ô đen xen đỏ. Dưới lần áo sơ mi chẳng còn gì nữa. Ippolit thì ngoài chiếc ghi-lê màu trắng mà bạn đọc đã biết, còn chiếc áo len sợi mềm màu xanh thẫm.

-Áo ghi-lê ông nên bán đi thì hơn – Ostap Bender ghen tị nói – Tôi mặc chắc rất vừa. Bán cho tôi đi.

Ippolit không tiện từ chối người bạn mới và người thành viên trực tiếp tham gia hợp đồng.

Ông nhăn nhó đồng ý bán cái áo ghi-lê theo giá ông đặt ra là tám rúp.

Nhận cái áo ghi-lê hãy còn ấm do Ippolit trao, Ostap tuyên bố

-Tiền, bao giờ thìm thấy kho báu tôi sẽ trả.

-Không, không được, Ippolit đỏ mặt lên. Hãy trả lại áo ghi-lê cho tôi.

Bản tính tế nhị của Ostap bị động chạm.

-Đúng là kiểu làm ăn cò con của bọn tiểu thương! – Hắn quát lên – Khởi đầu sự nghiệp mười lăm vạn đồng mà lại đi cải nhau vì tám đồng vặt vãnh! Ông hãy học cách sống phóng khoáng dần đi là vừa.

Ippolit Matveevich càng đỏ mặt hơn, ông rút cuốn sổ nhỏ ra và viết nắn nót.

25/4/1927
Bán cho đồng chí Ostap Bender
8 rúp


Ostap ngó vào cuốn sổ tay.

-Ô hô! Nếu ông đã mở tài khoản tiền mặt cho tôi, thì hãy làm cho đúng thể thức. Bên tá phương, bên thải phương. Bên tá phương (bên có)nhớ ghi cho tôi sáu chục ngàn rúp mà ông đang nợ tôi, còn bên thải phương ghi chiếc áo ghi-lê. Sai ngạch có lợi cho tôi. Tôi còn những năm mươi chín ngàn chín trăm chín mươi hai rúp. Còn có thể sống được.

Sau đó Ostap thiếp đi trong giấc nhủ êm đềm của trẻ thơ. Còn Ippolit cởi hai cái vòng đầy len nơi cổ tay, đôi ủng sang trọng từ còn hồi là ông chủ, để lại bộ đồ lót rách tã của con nhà lính, chui vào trong chăn. Ông thấy rất chi là bất tiện. Phía thiếu chăn thì rét run, còn phía bên kia thì bị cái cơ thể trẻ trung, sôi sục những tư tưởng lớn của tên vua mánh thiêu đốt.

Cả ba nhân vật trong căn hầm đều nằm mơ.

Ippolit mơ thấy những cái đáng sợ, những con vi trùng lúc nhúc, công an hình sự, cái áo tang dài và lão thợ quan tài Bejentruc diện áo Smoking nhưng không cạo râu.

Ostap mơ thấy núi lửa Phú Sĩ, ông giám đốc Tơ-rớt Bơ và Ta-rát Bun-da đang đứng bán những tấm bưu ảnh chụp công trình thủy điện trên sông Đơ-nhi-ép.

Còn lão quét vườn thì mơ thấy con ngựa sổng khỏi chuồn. Lão tìm nó mãi đến sáng cũng không thấy. Lão giật mình tỉnh dậy trong tâm trạng hoảng sợ. Lão ngạc nhiên nhìn hai con người nằm ngủ trên giường của lão. Hồi lâu vẫn không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, lão bèn vớ lấy cây chổi và đi ra sân thực hiện nhiệm vụ trực tiếp của mình là hốt phân ngựa và càu nhàu với các cụ bà về hưu dưỡng lão.

Hết chương 6, xem tiếp chương 7 “DẤU VẾT THUỐC NHUỘM TITANIK”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 7
DẤU VẾT THUỐC NHUỘM TITANIK

Ippolit Matveevich thức dậy, theo thói quen, lúc bảy giờ rưỡi, nói to thành tiếng “gút móc-ghen” rồi đi ra chỗ lavabo. Ông rửa mặt, súc miệng một cách thích thú rồi lắc lắc đầu để nước chảy ra khỏi lỗ tai. Lúc lau mặt mới dễ chịu làm sao, nhưng khi đưa cái khăn ra khỏi mặt, thì ôi thôi, ông thấy nó loang lỗ đúng cái màu đen rưng rức mà tối hôm kia ông đã dùng nó để nhuộm bộ ria nằm ngang của mình. Tim Ippolit như lịm đi. Ông chạy bổ đi lấy chiếc gương bỏ túi. Trong gương hiện ra cái mũi to và hàng ria bên trái xanh như cỏ non. Ông vội xê dịch chiếc gương sang bên phải. Hàng ria bên phải cũng một màu gớm ghiếc như thế. Cúi gục đầu xuống, như muốn vập vào gương, con người bất hạnh thấy cái màu đen rưng rức chỉ còn ngự trị ở đỉnh đầu, chứ hai bên và đằng trước chỉ thấy một lớp cỏ non mơn mởn.

Toàn thân Ippolit Matveevich phát ra tiếng rên rỉ đến nỗi Ostap mở choàng mắt ra.

-Ông điên rồi hả? – Ostap càu nhàu rồi lại nhắm tít mắt vào.

-Đồng chí Ostap ơi! – nạn nhân của “Titanik” van vỉ gọi.

Ostap tỉnh ngủ hẳn sau nhiều thao tác lay gọi. Hắn chăm chú nhìn Ippolit và cười ha hả. Sau khi trở mình tránh ông giám đốc – sáng lập viên của hợp đồng, gã giám đốc kỹ thuật kiêm chỉ đạo viên thực hành cười rung người, tay níu lấy thành giường nói to “Tôi chịu” rồi thả sức cười hô hố.

-Như thế là không tốt đâu, đồng chí Ostap ạ - Ippolit nói mếu máo với hai hàng ria xanh run rẩy.

Câu nói ấy truyền thêm sức lực cho Ostap. Tiếng cười chân tình của hắn còn kéo dài chừng mười phút nữa. Nghỉ một lát, hắn trở nên nghiêm trang.

-Sao ông cứ hầm hầm nhìn tôi như lính thấy rệp ấy thế. Ông thử ngắm ông xem nào.

-Thì thằng cha dược sĩ nó bảo tôi rằng đây là thuốc nhuộm màu đen rưng rức, mà nước lạnh hay nước nóng, bọt xà phòng hay dầu hỏa cũng không gột rửa được kia mà… Hàng nhập lậu kia mà…

-Hàng nhập lậu ư? Tất cả các thứ hàng nhập lậu đều làm ra ở Odecxa, tại thành phố Malaia Arnautskaia. Đưa tôi xem cái lọ nào… ông đã xem chỉ dẫn ở đây chưa?

-Xem rồi.

-Đây, những chữ nhỏ li ti kia mà? Ở đây nói rõ rằng sau khi gội đầu bằng nước lạnh, nước nóng, xà phòng hay dầu lửa, thì nhất thiết không được lau tóc, mà phải ra phơi nắng hoặc hong lên bếp dầu… Tại sao ông không làm đúng như thế? Bây giờ thì ông đi đâu được với cái thư râu tóc ngớ ngẩn kia?

Ippolit Matveevich bần thần cả người. Lão Tikhon bước vào. Thấy ông chủ ria xanh, lão làm dấu thánh giá và xin vài hào uống cho tỉnh rượu.

-Cho anh hùng lao động ấy một rúp đi – Ostap nói – và nhớ ghi vào tài khoản của tôi. Đấy là việc riêng giữa ông với đầy tớ cũ của ông. À mà hượm đã, bố già ơi, đừng đi vội, có một việc này đã.

Ostap hỏi han lão già quét vườn, về món đồ gỗ và năm phút sau hai thành viên hợp đồng tô nhượng đã biết mọi chuyện. Toàn bộ đồ gỗ đã bị chở về phòng nhà đất năm 1919, trừ một chiếc ghế ở phòng khách. Chiếc này lúc đầu thuộc quyền sở hữu của Tikhon, sau đó nó bị ông chủ nhiệm Nhà bảo đảm xã hội số 2 lấy mất.

-Nghĩa là nó vẫn ở trong nhà này?

-Vâng.

-Này anh bạn Tikhon, - Ippolit hồi hộp hỏi, - hồi anh giữ chiếc ghế, anh có… có sửa ghế lần nào không?

-Sửa nó làm sao được ạ. Hồi xưa người ta đóng ghế tài lắm. Một cái ghế dùng mấy chục năm vẫn tốt.

-Thôi được, đi đi, đây, cho anh bạn thân một rúp nữa và chớ có bép xép với ai rằng ta về đấy nhé.

-Thưa ngài, tôi xin câm như cá ạ.

Sau khi đẩy lão quét vườn ra và nói to “Băng bắt đầu trôi”, Ostap Bender lại quay lại chuyện râu tóc cua Ippolit.

-Đành phải nhuộm lại thôi. Ông hãy đưa tiền để tôi ra hiệu thuốc. Cái thuốc “Titanik” của ông chỉ nhuộm lông chó được thôi. Ngày xưa, ôi cái thời hoàng kim!... Một vị giáo sư về môn đua ngựa có kể cho tôi nghe câu chuyện xúc động thế này. Ông có quan tâm đến môn đua ngựa không? Không à? Tiếc quá! Xúc động lắm kia!... Vậy là có một ông vua mánh tên là bá tước Drutski. Drutski đánh cá thua năm trăm ngàn. Triệu phú thua cuộc! Khi ông ta chẳng còn gì ngoài các khoản nợ nần, và đang tính chuyện tự tử, thì một tay đại bịp nhận của ông ta năm chục rúp để cho một lời khuyên. Drutski ra đi, một năm sau trở về đem theo một con ngựa nòi ba tuổi, giống Or-lốp. Sau đó ông bá tước chẳng những trả hết nợ, thu lại số tiền đã mất, mà còn thắng cuộc ba trăm ngàn nữa. Con ngựa nòi Or-lốp của ông ấy tên là Makler bao giờ cũng về nhất. Trong các cuộc đua ngựa, ông ta vượt trước Mak-magon cả một thân ngựa. Sấm sét chưa!... Nhưng Kutochkin (ông có nghe tên vị này chưa?) để ý rằng mọi con ngựa giống Or-lốp đều thay đổi màu lông. Chỉ riêng con Makler vẫn y nguyên như cũ. Câu chuyện om xòm cả lên! Ông bá tước xơi ba năm tù. Thì ra Makler chẳng phải giống Or-lốp, mà chỉ là ngựa lai được nhuộm lông, mà giống ngựa lai thì tỉnh táo hơn Or-lốp nhiều? Giống or-lốp đừng hòng đuổi được chúng. Đấy, ông thấy tuyệt chưa? Thế mới là thuốc nhuộm chứ.

-Nhưng đây là loại thuốc nhuộm chính cống, có nhãn hiệu hẳn hoi.

-Thì cái nhãn hiệu của nó cũng là đồ dỏm như nhãn thuốc “Titanik” của ông thôi. Nào đưa tiền đây!

Ostap quay về với lọ thuốc nước trong tay.

-“Naiada” có lẽ khá hơn loại “Titanik” của ông. Hãy cởi vét-tông ra!

Nghi lễ nhuộm tóc lại bắt đầu. Nhưng cái “màu hạt dẻ kỳ diệu” làm cho tóc “mượt mà và thơm tho” khi trộn với màu xanh là cây của “Titanik” đột nhiên làm cho râu tóc của Ippolit Matveevich có màu quang phổ mặt trời.

Từ sáng đến giờ chưa được miếng gì vào bụng, Ippolit nổi xung chửi tất cả các xí nghiệp mỹ phẩm của quốc doanh cũng như của tư nhân(nằm ở phố Malai Arnautskaia tại Odecxa).

-Râu tóc như thế này thì ngay Aristid Brian cũng không có – Ostap vui vẻ nhận xét – Nhưng sống ở nước Nga Xô Viết với món râu tóc màu cực tím này không ổn. Phải cạo đi thôi.

-Tôi chịu thôi – Ippolit cay đắng nói – Ai lại làm thế.

-Ông quý râu tóc lắm hả?

-Tôi chịu thôi – Ippolit cúi đầu nhắc lại.

-Vậy thì ông cứ ngồi suốt đời ở căn hầm này, còn một mình tôi sẽ đi tìm kim cương. À, mà chiếc ghế thứ nhất đang ở trên đầu chúng ta đấy.

-Thôi, anh cạo giùm tôi vậy.

Tìm được chiếc kéo, Ostap thộp lấy râu tóc Ippolit xén luôn. Râu tóc rơi lả tả từng lọn một. Cắt xong, vị giám đốc kỹ thuật rút trong túi ra chiếc bàn cạo “Jilet” màu vàng xỉn, lấy lưỡi dao dự trữ trong ví lắp vào và bắt đầu cạo cho Ippolit lúc ấy đang mếu máo.

-Còn lưỡi dao cạo cuối cùng đem cạo cho ông. Đừng quên ghi vào tài khoản “có” hai rúp tiền công và tiền dao cạo đấy nhé.

Đang quằn quại đau khổ, Ippolit vẫn hỏi:

-Sao đắt thế? Hiệu cắt tóc nào cũng chỉ lấy giá bốn chục cô-phết thôi!

-Thưa đồng chí Thống chế, hiệu cắt tóc bí mật phải khác chứ, Ostap đập luôn.

Nỗi đau đớn của một người bị cạo đầu bằng manh-xà-lam thật là vô cùng. Ippolit nhận ra điều này ngay từ lúc lưỡi dao chạm vào đầu.

Nhưng rồi cái gì cũng đi đến chỗ kết thúc của nó.

-Xong. Phiên họp tiếp tục! Xin đừng nhìn những kẻ mau nước mắt! Bây giờ ông giống hệt thi sĩ Boborykin nổi tiếng!

Ippolit phủi những túm tóc gớm ghiếc cách đây mấy ngày còn là những sợi bạc đáng kính, rửa lại mặt mũi, cảm thấy ngứa ngáy buồn buồn trên đầu và lại soi gương, có lẽ đến lần thứ một trăm kể từ sáng đến giờ. Cái mà ông nhìn thấy bỗng khiến ông vui thích. Trong gương là một khuôn mặt tuy méo sệch vì đau khổ, nhưng trông khá trẻ trung của một diễn viên nghiệp dư.

-Thôi, lên đường! Một , hai! Kèn trận đang thúc giục! – Ostap nói to – Tôi đến phòng nhà đất, nói đúng hơn, đến cái nơi trước kia là phòng nhà đất. Còn ông hãy lên gặp các cụ bà!

-Chịu thôi – Ippolit nói – Tôi sẽ rất khổ tâm nếu bước vào ngôi nhà cũ của mình.

-Ái chà chà!... Cảm động chưa! Nhà quý thộc thượng lưu bị xua đuổi! Được rồi, Ông đến phòng nhà đất, để tôi hoạt động ở đây vậy. Nơi hội quân, căn phòng của lão quét vườn. A-lê-hấp!

Hết chương 7, xem tiếp chương 8 “KẺ CẮP QUÝ PHÁI”
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
CHƯƠNG 8
KẺ CẮP QUÝ PHÁI


Chủ nhiệm nhà dưỡng lão 16 No2 là một tên kẻ cắp bẽn lẽn. Toàn bộ thể xác y chống lại sự trộm cắp, nhưng không đánh cắp thì y không chịu nỗi. Y đánh cắp và y xấu hổ. Y đánh cắp thường xuyên, y thường xuyên xấu hổ, bởi vậy hai gò má nhẵn nhụi của y bao giờ cũng đỏ hồng lên vì bẽn lẽn, bối rối, ngượng ngập và xấu hổ. Tên y là Alecsandr Iakolevich, còn tên vợ y – Alechsandra Iakolepna. Y gọi vợ là Sashkhen, vợ y gọi y là Alkhen. Trên đời này chưa thấy kẻ cắp quý phái nào như Alecsandr Iakolevich.

Y không chỉ là chủ nhiệm nhà dưỡng lão, mà nói chung làm chủ nhiệm gì gì cũng xong tuốt. Lão chủ nhiệm cũ, vì đối xử thô bạo với các cụ bà, đã bị cách chức và cử đi làm nhạc trưởng dàn nhạc giao hưởng. Alkhen khác hẳn lão thủ trưởng vô giáo dục của y trước đây. Trong giờ làm việc đủ tám giờ vàng ngọc, y quản lý toàn bộ nhà dưỡng lão và ăn nói cực kỳ lịch thiệp với các bà già về hưu. Y tiến hành tại đây những cuộc cải cách và cải tiến quan trọng.

Ostap Bender kéo cánh cửa gỗ sồi nặng chình chịch của tòa biệt thự nhà Ippolit và có mặt ở tiền sảnh. Ở đây thoang thoảng mùi chào khê. Từ trên gác vọng xuống tiếng râm ran nghe như tiếng u-ra dây chuyền; mà không thấy có ai xuất hiện. Một cầu thang lớn bằng gỗ sồi xưa kia được đánh véc-ni dẫn lên tầng trên. Những phiến đồng ép thảm còn đó, nhưng thảm trải cầu thang đã không còn nữa.

Vừa lên trên gác, Ostap vừa nghĩ: “Thằng cha đô thống quý tộc ngày trước sống cũng vương giả đây!”.

Ở căn phòng thứ nhất rộng rãi và sáng sủa, khoảng mười lăm bà cụ tóc bạc, mặc quần áo may bằng loại vải tualdenor màu lông chuột rẻ tiền nhất, đang ngồi thành một vòng tròn. Các cụ nghển cổ nhìn một người đàn ông béo tốt đứng giữa vòng tròn và đồng thanh hát.

Tiếng trống vọng lại từ xa
Ấy là tiếng xe tam mã quen thuộc….
Tuyết lấp lành xa xa
Như một tấm màn trắng rộng

Người điều khiển dàn đồng ca, cũng mặc bộ đồ may bằng vài tualdenor màu lông chuột, dùng cả hai tay đánh nhịp và hét to.

- Bà Diskant, khẽ chứ! Bà Kokushkina, hát nho nhỏ thôi!

Anh ta nhìn thấy Ostap, nhưng không đủ sức ngăn cử động đôi tay, vẫn tiếp tục chỉ huy dàn đồng ca, chỉ nhìn người vừa bước vào với cặp mắt thiếu thân thiện. Dàn đồng ca cất tiếng nghèn nghẹn như bị bịt gối vào miệng.

Ta – ta – ta, ta – ta – ta, ta – ta –ta,
Tô – rô – rôm, tu – ru – rum, tu – ru – rum…

Chọn lúc dừng nghỉ giữa hai giai điệu, Ostap hỏi:

- Xin lỗi, tôi muốn gặp đồng chí chủ nhiệm nhà dưỡng lão.

- Có việc gì thế, đồng chí?

Ostap chìa tay cho vị chỉ huy dàn đồng ca và thân mật hỏi:

- Hát dân ca cổ phải không? Hay đấy. Tôi là thanh tra phòng chữa cháy.

Vị chủ nhiệm bối rối:

- Vâng, vâng, anh ta ngượng ngùng đáp – vừa vặn tôi đang chuẩn bị viết báo cáo.

- Đồng chí khỏi lo – Ostap tuyên bố dễ dãi – tự tôi sẽ viết báo cáo hộ. Đồng chí hãy đưa tôi đi xem ngôi nhà.

Alkhen giơ tay ra hiệu giải tán dàn đồng ca và các cụ bà tản ra đi bằng nhưng bước chân líu ríu mừng rỡ.

- Xin mời theo tôi – vị chủ nhiệm nói.

Trước khi đi, Ostap quan sát kỹ đồ gỗ ở căn phòng thứ nhất. Ở đây có một cái bàn, hai chiếc ghế dài chân bằng sắt (trên lưng một chiếc khắc rõ chữ “Kotia”) và một cây đàn hoàng cầm.

- Trong phòng này không có bếp dầu hỏa chứ? Hoặc các thứ bếp lò tạm thời khác chẳng hạn?

- Không, không ạ. Phòng này chúng tôi dùng làm nơi tập cho các tổ kịch đồng ca, âm nhạc và nghệ thuật tạo hình….

Nói đến hai tiếng âm nhạc, Alkhen đỏ mặt. Cái cằm đỏ trước, rồi đến trán và hai bên má. Alkhen ngượng quá. Anh ta đã bán hết các dụng cụ nhạc khí. Lá phổi yếu ớt của các bà già dầu sao cũng chỉ phát ra những tiếng phều phào mà thôi. Ai lại để hàng đống nhạc cụ bằng kim loại chết dí một chỗ.

Alkhen không thể không đánh cắp bộ nhạc cụ ấy. Cho nên bây giờ anh ta xấu hổ.

Trên tường treo một khẩu hiệu chữ trắng, viết trên một mãnh vài tualdenor màu lông chuột cằng từ cửa sổ này sang cửa sổ kia:

“DÀN NHẠC KHÍ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SÁNG TÁC TẬP THỂ”

- Tốt lắm – Ostap nói – phòng tập này không có gì nguy hiểm về phương diện phòng chữa cháy. Nào, ta đi tiếp.

Đi qua mấy phòng ngoài của biệt thự nhà Ippolit, Ostap không thấy đâu chiếc ghế bằng gỗ hồ đào chân cong, bọc loại vải hoa Ăng-lê sáng màu. Chân các bức tường lát đá cẩm thạch treo la liệt các chỉ lệnh về nhà dưỡng lão No2. Ostap đọc các chỉ lệnh ấy, thỉnh thoảng lại hỏi “Ống khói có được nạo thường xuyên không?, Các bếp lò ổn cả chứ?”. Và sau khi nghe những câu trả lời cặn kẽ, họ lại đi tiếp.

Thanh tra phòng chữa cháy ra sức sục sạo mọi ngõ ngách trong nhà để tìm một góc nào đó có nguy cơ phát hỏa, nhưng về phương diện ấy, tất cả điều tốt đẹp. Ostap bước vào các phòng ngủ. Các cụ bà thấy hắn đều đứng dậy và cúi chào. Trên các chiếc giường đều có những cái chăn xù lông như lông chó và một đầu cóp dệt chữ “Chân”. Dưới gầm gường kê những chiếc hòm gỗ nhỏ, thòi ra đúng một phần ba theo sáng kiến của Alkhen là người ưa tác phong quân sự.

Mọi thứ trong nhà No2 đều toát ra vẻ giản dị quá mức: đồ gỗ gồm toàn những chiếc ghế dài chở từ đại lộ Alechsandrop, nay là đại lộ thứ bảy lao động vô sản, về đây, những chiếc đèn dầu hỏa mua ngoài chợ; những cái chăn có chữ “Chân” đáng sợ. Chì có một thứ được gắn thật chắc, thật cầu kỳ: ấy là các lò xo cửa.

Các bộ dụng cụ lắp vào cánh cửa là niềm say mê của Alkhen. Anh ta đã đầu tư muôn vàn công sức để trang trí cho hết thảy – không trừ cánh cửa nào – những bộ lò xo thuộc các hệ thống, kiểu loại hết sức khác nhau. Có loại lò xo đơn giản nhất theo kiểu thanh ngang. Có loại lò xo hơi, với những cái bơm hình trụ bằng đồng. có loại lò xo quả tạ như những cái túi treo lủng lẳng. có cả loại lò xo cấu tạo rối rắm đến mức những tay thợ mộc cừ khôi cũng phải lắc đầu ngán ngẩm. Và tất cả các loại lò xo, dụng cụ ấy đều có sức mạnh ghê gớm. Các cánh cửa đóng sập lại nhanh ngang với lúc bẩy chuột bị sập, làm rung chuyển cả tòa nhà. Các cụ bà ré lên tìm cách tránh né những cái cánh cửa đóng sầm sập nhưng không phải bao giờ các cụ cũng chạy kịp. Cánh cửa đuổi theo những kẻ bỏ chạy, đập vào lưng họ, còn từ phía trên lao xuống quả đối trọng vút ngang bên thái dương như một viên đạn đại bác, kèm theo một tiếng cạch khô khốc.

Khi Ostap cùng vị chủ nhiệm đi xem nhà, các cánh cửa chào đón họ bằng những cú sập đáng sợ.

Toàn bộ pháo đài tuyệt hảo này không giấu giếm thứ gì, mà chiếc ghế nọ vẫn mất tăm. Để phát hiện nguy cơ gây cháy, đồng chí thanh tra bước vào bếp. Ở đây, một cái chảo lớn vốn để giặt quần áo, đang ninh món cháo mà cái mùi của nó ông vua mánh đã đánh hơi thấy từ lúc ở tiền sảnh. Ostap khịt khịt mũi, hỏi:

- Món này nấu với dầu ma-dút à?

- Thưa, nấu với bơ nguyên chất đấy ạ!- Alkhen đỏ bừng mặt, đỏ đến tận chân tóc – Chúng tôi mua loại bơ này ở trại vắt sữa đấy.

Vị chủ nhiệm xấu hổ quá chừng.

- Dầu sao món này cũng không có nguy cơ phát hỏa – Ostap nhận xét.

Trong bếp cũng không có ghế tựa. Chỉ có một cái ghế đẩu mà tay đầu bếp đeo tạp dề và đội mũ may bằng vải tualdenor đang ngồi.

- Tại sao ở đây các thứ y phục đều một màu xám xịt và thô như giẻ lau cả thế?

Alkhen bẽn lẽn cúi gầm mặt xuống.

- Người ta cấp phát cho chúng tôi ít tiền quá – Anh ta tự thấy mình đáng ghét.

Ostap nghi ngờ nhìn anh ta, nhận xét:

- Điều đó không liên quan gì đến cơ quan phòng chữa cháy mà tôi đang đại diện.

Alkhen sợ hãi đáp:

- Chúng tôi áp dụng mọi biện pháp phòng cháy. Chúng tôi dùng cả bình cứu hỏa phun bọt nhãn hiệu “Ekler” đấy ạ.

Vị thanh tra rẽ vào gian nhà kho, miễn cưỡng tới xem cái bình cứu hỏa. Cái chóp nón đỏ bằng sắt của nó, tuy là đồ vật duy nhất trong nhà liên quan đến công tác phòng chữa cháy, song lại khiến cho vị thanh tra hết sức khó chịu…

- Cái này mua ở chợ trời phải không?

Rồi không đợi câu trả lời của Alkhen (Anh ta như vừa bị sét đánh). Ostap gỡ cái bình cứu hỏa ra khỏi chiếc đinh gỉ, bất ngờ đập vỡ ngòi và nhanh tay xoay chóp nón lên phía trên. Nhưng thay vì tia bọt vọt lên, cái chóp nón chỉ phát ra tiếng xì xì giống như giai điệu cổ “Thượng đế vinh quang của chúng con ở Xi-ông”.

- Hiển nhiên là mua ở chợ trời – Ostap xác nhận ý kiến ban đầu của mình và treo cái bình cứu hỏa vẫn đang tiếp tục phun xì xì vào chỗ cũ.

Tiếng xì xì tiễn chân hai vị đi tiếp.

“Chiếc ghế đâu nhỉ? – Ostap nghĩ thầm – Mình bắt đầu bực rồi đây”. Và hắn quyết định chưa rời bỏ tòa nhà lắm vải tualdenor này nếu như chưa tỏ tường mọi chuyện.

Trong lúc vị tranh tra và ông chủ nhiệm bò lên gác xép, đi sâu vào chi tiết công việc phòng cháy và tình trạng các ống dẫn khói, thì nhà dưỡng lão No2 của ủy ban bảo đảm xã hội thành phố Stargorot vẫn sống cuộc sống thường ngày của nó.

Bữa trưa đã nấu xong. Mùi cháo khê tăng lên rõ rệt và át hẳn mọi mùi chua, mùi khai còn lại trong tòa nhà. Các hành lang nhộn nhịp hẳn. Các cụ bà hai tay bưng trước ngực những cái đĩa sắt đựng cháo, thận trọng từ bếp bước ra và ngồi xuống dãy bàn dài, cố tránh nhìn những khẩu hiệu treo la liệt trong phòng ăn do đích thân Alecsandr Iakolevich sáng tác và được Alechsandra Iakoplepna trình bày mỹ thuật. Các khẩu hiệu ấy như sau:


“THỨC ĂN LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỨC KHỎE”


“MỘT QUẢ TRỨNG CÓ HÀM LƯỢNG MỠ NGANG ¼ FUN THỊT”


“NHAI KỸ THỨC ĂN LÀ BẠN GIÚP ĐỠ XÃ HỘI”



“ĂN THỊT CÓ HẠI”


Tất cả những chữ thiêng liêng ấy gợi các cụ bà hồi tưởng những chiếc răng đã rụng từ trước cách mạng, những quả trứng đã mất tăm cũng vào dạo đó, món thịt phải thua trứng về hàm lượng mỡ, và có thể các vụ suy ngẫm về cái xã hội mà họ đã không có khả năng giúp được nữa trong khi nhai kỹ thức ăn.

Ngoài các bà già ngồi ăn còn có Isidor Iakovlevich, Apfanseix Iakovlevich, Kirill Iakovlevich, Oleg Iakovlevich và Pasha Emilevich. Cả về tuổi tác lẫn giới tính, năm người trẻ tuổi ấy đều không dính dáng gì tới các nhiệm vụ Bảo đảm xã hội, thế nhưng bốn tay Iakovlevich lại là em trai của Alkhen còn Pasha Emilevich là cháu gọi gọi Alechsandra Iakoplepna bằng cô. Năm vị này, mà người cao tuổi nhất là Pasha Emilevich mới ba mươi hai tuổi, không hề coi cuộc sống của họ ở nhà dưỡng lão là bất bình thường. Họ sống ở đây theo chế độ người già về hưu, họ cũng nằm giường công và được phát loại chăn có dệt chữ “Chân”, cũng mặc những bộ quần áo may bằng vải tualdenor màu lông chuột như các cụ bà, nhưng nhờ trẻ và khỏe, họ ăn uống tốt hơn hẳn các bà cụ. Họ đánh cắp trong nhà tất cả những gì Alkhen chưa kịp đánh cắp, Pasha Emilevich có thể ăn vụng liền một lúc hai kilogram cá và lần ấy hắn đã làm cho cả nhà dưỡng lão hết sạch suất ăn trưa.

Các cụ bà chưa húp hết một phần ba đĩa cháo thì bọn thằng cha Iakovlevich và Pasha đã chén sạch suất của mình và đứng dậy đi xuống nhà bếp để tìm kiếm tất cả những gì có thể nuốt được.

Bữa trưa vẫn tiếp diễn. Các cụ bà nhao nhao:

- Chúng nó ních đầy bụng rồi sẽ hát rống lên cho mà xem.

- Sáng nay thằng cha Pasha Emilevich đã lấy chiếc ghế ở phòng câu lạc bộ đem bán cho một con buôn ở cổng hậu.


- Tối nay thế nào hắn cũng say khướt cho mà xem…

Lúc ấy câu chuyện giữa các cụ bà bị cắt đứt bởi tiếng loa lạo xạo, át cả tiếng xì xào vẫn đang phát ra từ cái bình cứu hỏa, và một giọng bò đực mở đầu.

- ….ch…ê…ế….

Các cụ bà quay lưng về phía cái loa phóng thanh đặt ở góc phòng, ngay dưới sàn, tiếp tục ăn với hy vọng thoát khỏi tiếng điếc tai. Nhưng tiếng loa bị tắt đã lại thông báo:

- Đơ – ơ - ấy lơ – ơ – à một sáng chế có giá trị. Một đội trưởng trên tuyến đường sắt Murmanak là đồng chí Sovutski…

Cái loa lại bị tắc nghẹn, cố hít không khí lấy hơi, rồi thông báo tiếp.

- … chề ê - ế tính hiệu ánh sáng trên các thiết bị dọn tuyết. Sáng chế đã được viện nghiên cứu cầu đường ủng hộ.

Các cụ bà như những con vịt xám bơi về phòng mình. Cái ống loa rung bần bật vì sức mạnh âm lượng, cứ tiếp tục sôi lên trong căn phòng trống.

- Còn bây giờ mời các bạn nghe vài khúc dân ca Novgorot.

Xa lắc xa lơ, ở giữa lòng trái đất, ai đó chạm vào dây đàn ba la lai ca, rồi cất tiếng hát lên:

Lũ rệp đang bò trên tường. Bò trên tường tránh nắng.
Trông thấy viên thanh tra tài chính, viên thanh tra tài chính.
Chúng lăn ra chết tức thì….

Ở giữa lòng trái đất, bài hát dân ca ấy kích thích người ta hoạt động sôi nổi. Từ loa phát ra tiếng ầm ầm, nghe không rõ là tiếng vỗ tay như sấm hay là các núi lửa ngầm bắt đầu chuyển mình.

Trong khi ấy, viên thanh tra phòng chữa cháy đang bực mình tụt bằng mông từ trên gác xép xuống, hóa ra lại có mặt ở nhà bếp, nhìn thấy năm công dân đang sục cả hai tay vào thùng bắp cải muối và bốc lên nhai nhồm nhoàm. Cả năm lặng lẽ ăn. Chỉ riêng Pasha Emilevich lắc đầu như một kẻ sành ăn, vừa gỡ sợi bắp cải dính ở râu, vừa nói như đang nghẹn:

- Món bắp cải này mà không có rượu vốt-ca thì chán ngắt.

- Một tốp năm bà cụ mới đến à! – Ostap hỏi.

- Đấy là bọn trẻ mồ côi đấy ạ - Alkhen trả lời trong khi dùng vai dồn vị thanh tra ra khỏi bếp và vung nắm đấm dọa “bọn trẻ mồ côi”.

- Bọn trẻ từ vùng Povolie đói khát đến hả?

Alkhen lúng túng chưa biết ăn nói ra sao.

Ostap nói:

- Di sản nặng nề của chế độ Sa Hoàng chăng?

Alkhen dang hai tay thất vọng, ra vẻ muốn nói: biết làm sao được một khi di sản nặng nề như vậy.

- Kết hợp giáo dục cả hai giới nam và nữ theo phương pháp tổng hợp chăng?

Alecsandr Iakolevich ngay lập tức mời viên thanh tra phòng chữa cháy dùng bữa trưa với tinh thần “trời cho gì ăn nấy”.

Hôm nay trời cho Alecsandr Iakolevich một chai rượu chát, món nấu xào thịt, món cá rán, bát canh chua bắp cải nấu với thịt loại một, một chú gà luộc và mấy cốc nước táo.

- Sashkhen ơi, - Alkhen gọi vợ, - em hãy làm quen đồng chí thanh tra phòng chữa cháy của thành phố đi.

Ostap làm điệu bộ nghệ sĩ cúi chào nữ chủ nhân, nói với chị ta những lời xã giao lập lờ nước đôi và dài dòng đến nỗi chính hắn cũng không nói hết câu. Sashkhen là một phụ nữ vạm vỡ mà vẽ yêu kiều bị giảm đi phần nào vì mái tóc cứng quèo. Chị ta cười khe khẽ và cùng cạn chén với cánh đàn ông.

- Chúc mừng nền kinh tế tập thể của hai anh chị, - Ostap chúc rượu.

Bữa ăn trôi qua vui vẻ, mãi đến lúc dùng món nước quả đét-xe, Ostap mới sực nhớ tới mục đích của mình. Hắn hỏi?

- Tại sao ở cơ quan nhà ta đây, các thứ đồ gỗ lèm nhèm thế?

- Đâu có – Alkhen lo lắng nói – thế cây đàn hoàng cầm thì sao ạ?

- Tôi biết, tôi có trông thấy nó. Nhưng thú thật ở đây chả có cái gì tử tế để ngồi cả. Toàn chậu giặt là chậu giặt thôi.

- Ở trong phòng câu lạc bộ có một cái ghế, - Alkhen tự ái, - một chiếc ghế ăng-lê hẳn hoi. Người ta bảo nó là đồ dùng của chủ cũ để lại.

- À, mà tôi chưa nhìn thấy phòng câu lạc bộ của anh chị. Về phương diện phòng cháy, nó có vấn đề gì không? Tôi phải xem mới được.

- Xin mời đồng chí.

Ostap cảm ơn nữ chủ nhân và bước ra.

Ở phòng câu lạc bộ không thấy bếp dầu hỏa, bếp lò tạm thời cũng không, các ống khói nguyên vẹn và được nạo thường xuyên, nhưng chiếc ghế thì kỳ lạ thay cho Alkhen, chả thấy đâu cả. Họ bổ đi tìm. Họ ngó xuống các gầm giường, gầm ghế dài, họ xê dịch cả cây đàn hoàng cầm – không rõ để làm gì; họ căn dặn các cụ bà lúc ấy cứ e ngại liếc về phía Pasha Emilevich, nhưng chiếc ghế đã không cánh mà bay. Pasha Emilevich tỏ ra hăng hái truy tìm hơn ai hết. Mọi người đã bình tâm lại, riêng Pasha vẫn tiếp tục chạy sang phòng nọ phòng kia, ngó cả vào đáy các bình thủy tinh đựng nước trắng, xê dịch những chiếc ly hoặc ca sắt uống nước và lầm bầm:

- Quái lạ, ở đâu thế nhỉ? Sáng nay chính mắt tôi còn trông thấy nó mà! Buồn cười thật!.

- Chán mớ đời, các bà cụ non ạ! – Ostap lạnh lùng buông một câu.

- Quái lạ thật đấy! – Pasha khăng khăng nhắc đi nhắc lại.

Nhưng lúc ấy, cái bình cứu hỏa “Ekler”, cái bình vẫn cất tiếng hát từ lúc Ostap đập vỡ ngòi, đã lên đến nốt “fa” cao nhất, nốt “fa” mà chỉ riêng nghệ sĩ nhân dân Nezdanova của nước cộng hòa mới hát nỗi, bỗng ngưng bặt, để một giây sau đùng đùng phụt ra một dòng bọt làm bay mũ của tay đầu bếp và bắn tung tóe lên trần nhà. Lạ thay, dòng bọt của nó cũng có màu xám hệt như vải tualdenor. Dòng bọt thứ hai khiến cậu cả Iakovlevich chưa đến tuổi thành niên bị ngã chổng kềnh, và nó cứ thế phụt ra ù ù.

Pasha Emilevich, Alkhen và tất cả những gã Iakovlevich còn nguyên vẹn chạy đổ xô tới chỗ xảy ra sự cố.

- Một cái bình cứu hỏa độc đáo và quái dị! – Ostap nói.

Các cụ bà ở lại riêng với Ostap, thấy không có mặt thủ trưởng, liền tố cáo:

- Ông ấy toàn đưa anh em họ hàng vào nhà dưỡng lão, chấm mút hết thứ này đến thứ kia.

- Ông ấy nuôi lợn bằng sữa, còn cho chúng tôi ăn cháo loãng.

- Ông ấy bán đủ mọi thứ của cải nhà này lấy tiền đút túi.

- Bình tĩnh nào, các cụ ơi, - Ostap lùi lại – rồi thanh tra lao động sẽ đến giải quyết cho các cụ. Tôi không được nghị viện ủy quyền làm việc đó đâu.

Các cụ bà cứ nói:

- Chính thằng cha Pasha Emilevich đã lấy chiếc ghế đem bán sáng nay chứ ai. Mắt tôi trông thấy rõ ràng.

- Bán cho ai? – Ostap quát to.

- Chỉ biết hắn đã bán. Hắn còn định bán cả cái chăn của tôi nữa.

Ngoài hành lang đang diễn ra cuộc đấu khốc liệt với cái bình cứu hỏa. Cuối cùng thiên tài của con người chiến thắng, và cái vòi bị hai bàn chân cứng như sắt của Pasha Emilevich giầy xéo, chỉ còn phun được túm bọt cuối cùng để rồi câm họng vĩnh viễn.

Các cụ bà bị sai đi lau sàn. Viên thanh tra phòng chữa cháy hơi cúi đầu, oai vệ tiến đến chỗ Pasha Emilevich.

- Một người quen của tôi – Ostap lạnh lùng nói – cũng bán trộm đồ gỗ của công. Bây giờ hắn đang ngồi tù đấy, anh có biết không?

- Tôi thấy lạ về lời buộc tội vô căn cứ của đồng chí – Pasha nói, người hắn xông lên mùi bọt nồng nặc.

- Anh bán cái ghế cho đứa nào? – Ostap cao giọng hỏi.

Lúc này Pasha vốn có nhạy cảm siêu nhiên, hiểu rằng người ta sẽ đánh đập hắn, thậm chí có thể đá hắn.

- Thưa, cho một gã đi buôn bán lại, một ông hàng xách ạ - Pasha đáp.

- Địa chỉ của nó?

- Tôi gặp nó lần đầu trong đời ạ.

- Lần đầu trong đời?

- Thưa vâng.

- Đáng lẽ phải tống vỡ quai hàm của mày, nhưng Zaratustra, không cho phép, - Ostap nói. – Thôi, cút mẹ mày đi cho rãnh!

Pasha Emilevich mỉm cười xu nịnh và lùi lùi dần.

- Này, đồ con hoang, - Ostap ngạo mạn gọi, lại đây đã. Thằng bán hàng xách tóc vàng hay tóc đen?

Pasha bắt đầu tả tỉ mỉ. Ostap lắng nghe, rồi kết thúc cuộc phỏng vấn:

- Dĩ nhiên điều này không liên quan đến công tác phòng chữa cháy.

Lúc Ostap ra về, Alkhen bẽn lẽn trao cho hắn tờ bạc 10 rúp.

- Điều mười bốn của bộ luật hình sự quy định trừng phạt kẻ hối lộ cho cán bộ, khi người ấy đang thi hành phận sự, - Ostap nói.

Nhưng tiền hắn vẫn cầm và không thèm chia tay với Alkhen; hắn bước ta cửa. Cánh cửa lớn được trang bị bộ lò xo cực khỏe, đầy mãi mới chịu mở ra, rồi đập vào mông Ostap một cú với sức nặng tấn rưỡi của nó. Ostap xoa xoa chỗ đau, nói:

- Đòn đã giáng, phiên họp tiếp tục!


Hết chương 8, xem tiếp chương 9 “MÁI TÓC XOĂN CỦA CHA ĐÂU RỒI”
 
Top