Nhịp Cầu Việt-Nga

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
Автор и ведущая программы – Маргарита Лянге.



Mã chèn diễn đàn :
Новости:
В Салехарде прошёл ХII Конгресс финно-угорских писателей, в котором участвовали полсотни литераторов из Финляндии, Венгрии, Эстонии, Франции, а также восьми регионов России: Коми, Карелии, Марий Эл, Удмуртии, Пермского края, Ханты-Мансийского, Ямало-Ненецкого и Ненецкого автономных округов. Главной темой форума стала детская литература и роль фольклорных традиций в воспитании детей и молодежи.

В Удмуртии наблюдается ажиотаж вокруг курсов удмурсткого языка, организованных властями республики. Бесплатные языковые курсы начали работать с сентября этого года в Глазове и Ижевске. Из-за наплыва желающих организаторам пришлось увеличить количество групп и перевести их на интенсивное обучение.

В Москве выбрали победительниц национального конкурса красоты "Краса России - 2013". Первое место досталось представительнице Владимирской области Анастасии Трусовой. Завоевавшая звание первой вице-мисс студентка Новосибирского технического госуниверситета Лилия Петрова получила приз в номинации "Русский образ". Эта номинация впервые была представлена на конкурсе.

Девушки демонстрировали навыки рукоделия, вокальные и танцевальные способности, выходили в купальниках, национальных костюмах, в вечерних платьях и в форме военно-морского флота.

В Челябинске в середине декабря пройдет фольклорно-гастрономический фестиваль "Уральские пельмени на Николу зимнего". Праздник приурочен к Николиному дню и поддерживает русскую традицию торгов и ярмарок, которые проходили перед Новым годом с широким размахом. В программе народные забавы и кулачные бои, песни и пляски. Участники клуба исторических реконструкций воссоздадут атмосферу уральской ярмарки прошлых столетий.

Сами о себе

Программа отправляется во Владивосток, в гости к человеку, который приехал в нашу страну четверть века назад. Нгуэн Тхи Май Зунг очень полюбила русские народные песни. В программе прозвучит фрагмент песни «Пряха» в исполнении россиянки вьетнамского происхождения, так, как она поет ее в кругу своей семьи.

 

Attachments

  • 244.mp3
    25.1 MB · Đọc: 449

hong tham

Thành viên thân thiết
Наш Друг
hiện giờ mình đang học năm 3 rồi nên cho em chút lời khuyên là nên luyện giao tiếp với bạn Nga và người địa phương nhiều hơn để tăng khả năng nghe nói tốt >. năm 1 ai cũng bỡ ngỡ vì theo học ko kịp có bạn còn khủng hoảng tâm lý do ko ghi chép bài vở kịp. tốt nhất là mượn vở bạn tây chép và ở nhà ôn tập tìm tài liệu theo bài giảng trên lớp. người việt m được cái cần cù bù thông minh nên thầy cô giáo cũng quý.có gì không hiểu thì hỏi ngay thầy cô trên lớp hay sau tiết học giải thích thêm cho.như vậy cũng tạo ấn tượng tốt ham học đối với thầy cô.
cố lên nha!
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
Vladimir Ivanov - Chuyên gia Việt Nam học

Vladimir Ivanov - Bác Volodya. Tên họ này quen thuộc với nhiều người, cả các chuyên viên Việt Nam học người Nga và Nga học người Việt, các giảng viên và sinh viên, rồi tất cả nnhững người Việt học tiếng Nga hay người Nga học tiếng Việt đều biết danh tính ông.Đã năm thập kỷ nay hàng bao lượt người sử dụng những cuốn Từ điển, trên trang bìa ghi tên tác giả V.V. Ivanov.


Ông là người thầy mến yêu của những chuyên viên mang vinh quang về cho ngành Việt Nam học ở Nga. Ông đã miệt mài chuẩn bị để công bố nhiều tác phẩm văn học kinh điển Nga bằng tiếng Việt. Ông là thành viên tập thể tác giả biên soạn và hiệu đính bộ Đại từ điển Việt-Nga bề thế mới xuất bản cách đây chưa lâu. Ông còn là một người lính của Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Những người lính như thế bây giờ còn lại rất ít. Ngày 21 tháng Giêng, Vladimir Ivanov kỷ niệm mốc sinh nhật chẵn đại thượng thọ 90 tuổi.

Khi chiến tranh bùng nổ, Volodya Ivanov mới 16 tuổi, vừa kết thúc chương trình lớp 9 phổ thông và chỉ học lớp 10 được đúng một ngày. Thay vì đến trường học tập, Volodya cùng với các thanh thiếu niên bạn bè và những người trẻ tuổi tham gia đào công sự chống tăng và thu hoạch vụ mùa, dựng chướng ngại vật trong những cánh rừng ngoại ô và dập tắt đám cháy do bom rải trên mái nhà thân thuộc ở một ngõ phố Matxcơva. Rồi sau đó Volodya vào làm việc tại nhà máy chế tạo súng cối. Như mọi nhân viên của công binh xưởng, Volodya có quyền ở lại đó không cần nhập ngũ. Nhưng vào năm 1943, khi đủ 18 tuổi, Volodya Ivanov đã tự tìm đến đăng ký ở Phòng Quân vụ để rồi được gửi đến trường Trung cấp Pháo binh ở thành phố Tula của những chuyên gia sản xuất vũ khí. Sau tháng rưỡi học tập, một số học viên trong đó có Volodya được gửi ra tiền tuyến. Ngay sau đó, các thanh niên trẻ măng này đã tham gia vào một trong những chiến dịch đẫm máu nhất của Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại – cuộc vượt sông Dnepr. Trong bão lửa hỏa lực địch dữ dội, những người lính xô-viết dùng đủ mọi thứ tìm thấy để bơi qua con sông rộng và theo đúng nghĩa đen họ lao bổ vào trận địa được thiết kế kiên cố của quân phát-xit ở bờ dốc hữu ngạn của dòng Dnepr. Vladimir Ivanov hồi tưởng như sau:

“Tiểu đoàn chúng tôi chỉ chiếm được một chiến hào.Trong những ngày đầu tiên, những trận đánh diễn ra liên tục suốt ngày đêm, bọn địch cố ném chúng tôi trở lại bờ kia của sông Dnepr. Ngày 15 tháng Mười năm 1943 tôi bị thương nặng, tám tháng rưỡi nằm trong Quân y viện cả ở miền nam lẫn miền bắc đất nước, và cả ở Matxcơva. Ra viện, tôi xuất ngũ và từ đó không trở lại đội hình nữa”.

Theo tính toán của các sử gia, thời hạn sống của một xạ thủ súng máy ở tuyến tiền tiêu ác liệt trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại chỉ gồm có 5 ngày. Vladimir Ivanov đã gặp may, ông chiến đấu trên tuyến đầu trong suốt hai tuần lễ mà vẫn sống sót. Từ quân y viện trở về, Ivanov hoàn thành chương trình lớp 10 và nhập học tại trường Đại học Mỏ.

Ông Ivanov kể: “Tôi trải qua học kỳ mùa hè và đến đợt thi tiếp theo thì tôi hiểu ra rằng khai thác mỏ hoàn toàn không phải là công việc hợp với mình. Tôi rút lại hồ sơ giấy tờ và rời trường. Tháng Chín năm 1946, tôi vào học ở Viện Nghiên cứu phương Đông và tốt nghiệp năm 1952. Trong số bạn đại học của cha tôi có một nhà nghiên cứu Ấn Độ, và những câu chuyện của ông về phương Đông kỳ bí thực sự hấp dẫn làm tôi say mê. Tại Viện, tôi nghiên cứu ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ và đã viết luận văn về thành ngữ cách ngôn tiếng Thổ. Nhưng đến năm 1950, Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam DCCH, và đất nước xô-viết cần đến các chuyên viên biết tiếng Việt. Cùng với tôi, được đề nghị nghiên cứu thứ ngôn ngữ Á Đông này còn có một số sinh viên khác, những người sau này trở thành chuyên gia Việt Nam học hàng đầu ở Liên Xô như Alla Shiltova, Yvetta Glebova, Albert Mazaev ... Nhiệm vụ mới mẻ và chẳng hề giản đơn. Không có sách giáo khoa mà cũng chẳng có từ điển. Cuốn tài liệu tham khảo đầu tiên của tôi là tập sách mỏng với bản dịch sang tiếng Việt bài phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Vyshinsky tại kỳ họp thứ nhất của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào năm 1946. Sau đó, có thời gian chúng tôi theo học ở Khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva MGU. Rồi tiếp đến là sự kiện Viện của chúng tôi sáp nhập với Đại học Quan hệ Quốc tế MGIMO, và thế là tôi có mặt tại trường đại học ngoại giao hàng đầu của đất nước”.

Vladimir Ivanov dạy tiếng Việt ở những trường đại học khác nhau, kể cả ở MGIMO. Các học trò của ông trở thành phiên dịch viên xuất sắc về tiếng Việt, nhận công tác trong các lĩnh vực khác nhau nhất: ngành ngoại giao, cơ quan chính phủ, ngành quân sự và lĩnh vực khoa học. Có thời gian Vladimir Ivanov được cử sang công tác ở Việt Nam, nơi ông đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và những lãnh đạo khác của Nhà nước Việt Nam. Chuyên viên Nga Ivanov đã góp phần xây dựng ngành công nghiệp của đất nước Dân chủ Cộng hòa ở vùng Đông Nam Á. Ông từng có nhiều năm làm việc tại Nhà xuất bản “Tiến bộ” Matxcơva, ấn hành bản chuyển ngữ sang tiếng Việt những tác phẩm chính trị-xã hội và văn học Nga. Uy tín cao của ông trong tập thể các chuyên viên Việt Nam học xô-viết thể hiện ở việc nhiều lần Vladimir Ivanov đảm nhận trọng trách dẫn đầu nhóm các thông dịch viên tiếng Việt tại các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô. Khối kiến thức phong phú uyên thâm của ông đắc dụng trong công việc yêu thích nhất là làm từ điển. V.V. Ivanov tham gia biên soạn cuốn Từ điển Việt-Nga nổi tiếng thường được gọi tắt là “Cuốn Xanh", công bố vào năm 1961, và bộ Đại từ điển mới Việt-Nga, là công trình được tiến hành trong nhiều năm và hoàn thành vào năm 2012. Vladimir Ivanov là một trong ba tác giả của bộ Từ điển Nga-Việt hai tập gồm khoảng 43.000 từ mà suốt trong nhiều năm qua cũng như nhiều năm tới chắc vẫn là nguồn chính và toàn diện nhất để tra cứu khi dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt.

Còn phải kể thêm nữa là ngay từ thuở làm người lính Hồng quân chiến đấu ngoài mặt trận, Vladimir Ivanov đã bắt đầu sáng tác thơ. Ông viết về mọi chuyện: về chiến tranh, về Việt Nam, về tình yêu và cuộc sống. Chúng ta sẽ nghe tác giả Vladimir Ivanov đọc một trong rất nhiều bài thơ của ông:

Vá tấm lưới cũ trong chiều buông thanh vắng

Nghe thoảng đâu đây lời hát nhẹ nhàng

Có đảo nhỏ đất mặn mòi bốn bề sườn dốc đứng

Những con tàu dửng dưng ngang qua về phố lớn Hải Phòng

Dáng tàu khuất xa rồi chàng ngư dân thuần phác

Vẫn tin có ngày Cát Bà đón tàu cập vào bến đảo hằng mong …

Đã hơn bốn chục năm nay, hàng năm vào Ngày Chiến thắng 9 tháng Năm người lính già của Sư đoàn Cận vệ số 12 Vladimir Ivanov đều mặc bộ quân phục cũ sờn và ra Công viên Văn hóa Gorky, một điểm hẹn hội ngộ của các cựu chiến binh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại từ khắp nước Nga. Đã ba năm nay, chỉ còn lại mình ông là đại diện của Trung đoàn cũ. Nhưng vào ngày này, sau bàn tiệc trong căn hộ ấm cúng hiếu khách của vợ chồng ông Ivanov đều tề tựu đông đủ con cháu của những người đồng chí đồng đội cũ tìm về quây quần bên Vladimir Vladimirovich. Ước mong sao truyền thống này sẽ tiếp nối dài lâu!

Mừng sinh nhật bác Volodya yêu quí, xin kính chúc sức khỏe và sự mẫn tiệp. Chúng tôi hy vọng trong nhiều, thật nhiều năm nữa còn được chiêm ngưỡng sự thông thái, khả năng kết thân quảng giao và luôn yêu mến mọi người, tính cách khảng khái bộc trực và lương thiện cùng óc trào lộng hài hước không gì sánh nổi. Xin kính chúc đại trường thọ, hạnh phúc viên mãn, thưa chuyên viên Việt Nam học lão trượng, người lính và nhà thơ Nga Vladimir Ivanov!
 
Last edited by a moderator:

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

© Photo: en.wikipedia.org

Trên lãnh thổ Việt Nam có của ba đài tưởng niệm người Nga đã chết tại nước này.

Tại Hòa Bình có đài tưởng niệm những người xây dựng thủy điện. Tại Cam Ranh có đài tưởng nhớ các quân nhân sang Việt Nam giúp tăng cường quốc phòng của nước cộng hòa. Và tại Lái Thiêu, gần thành phố Hồ Chí Minh có đài tưởng niệm các thủy thủ của tàu tuần dương "Diana" đã qua đời ở Sài Gòn hơn 110 năm trước.

Chiếc tàu tuần dương Nga này giống hệt như con tàu "Aurora" nổi tiếng, do tình cờ, cũng đã từng hiện diện tại Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20, sau khi tham gia các trận đánh trong cuộc chiến Nga - Nhật từ những ngày đầu tiên. Đầu năm 1904, tàu chiến "Diana" tham gia bảo vệ Port Arthur, cơ sở quân sự của Nga ở Trung Quốc. Trong tháng Bảy, chiếc tàu tuần dương được lệnh phải rời khỏi Port Arthur và tiến tới Vladivostok. Trong một trận hải chiến với Nhật Bản, tàu bị hư hại đáng kể, nhiều thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và bị thương. Chạy trốn sự truy đuổi của tàu chiến Nhật Bản, thuyền trưởng "Diana" đưa tàu tuần dương tới bờ biển Việt Nam. Nhà sử học Nga Petr Tsvetov cho biết:

“Đây là quyết định xuất phát từ chỗ Pháp tuyên bố trung lập trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật. Đồng thời tàu của Nga và Nhật Bản có thể lưu trú tại các cảng thuộc thực dân Pháp như ở Việt Nam trong thời hạn bất kỳ, có thể sử dụng sự hỗ trợ của các doanh nghiệp địa phương để thực hiện công việc sửa chữa, ngoại trừ những gì liên quan đến vũ khí của họ.”

Tàu "Diana" đến Hải Phòng ăn than và đến 8 tháng Tám thì vào cảng Sài Gòn. Ở đó, bất chấp tuyên bố trung lập của Pháp, có một bất ngờ khó chịu đang chờ đợi tàu chiến Nga. Hóa ra để cập bến sửa chữa, tàu biển cần phải có giấy phép của chính phủ Pháp. Do thực tế là chính phủ Pháp đang đứng về phía Nhật Bản, điện tín từ Paris ra lệnh cho các quan chức của chính quyền thuộc địa tước vũ khí của tàu tuần dương. Tàu phải tháo cờ Nga, vũ khí trên tàu bị đưa nộp vào kho trên bờ. Những người còn lại của thủy thủ đoàn thì phải thực tập nội trú.

Tàu "Diana" phải ở lại Sài Gòn 14 tháng. Trong thời gian này, tám trong số thủy thủ của nó đã chết vì vết thương trong cuộc chiến với Nhật Bản và vì khí hậu bất thường. Họ được chôn cất tại nghĩa trang ở trung tâm Sài Gòn. Sau gần bảy mươi năm, khi các nhà chức trách thành phố Hồ Chí Minh quyết định xây công viên tại khu vực nghĩa trang, theo thỏa thuận với phía Nga, hài cốt của các thủy thủ đã được chuyển đến nghĩa trang thành phố Lái Thiêu. Tại khu mộ, năm 1985 đã dựng lên một tượng đài có hình con tàu với cột buồm cao và chiếc neo để tưởng niệm các thủy thủ Nga.

Cừ Nga trên tàu tuần dương "Diana" lại được kéo lên vào tháng Mười năm 1905, sau khi phê chuẩn hiệp ước hòa bình giữa Nga và Nhật Bản. Cùng thời điểm đó, có tàu tuần dương khác là tàu "Aurora" và các tàu khác của Nga cũng tham gia chiến sự được ghé vào Sài Gòn. Trong tháng Mười một, họ rời cảng Sài Gòn và lên đường về biển Baltic quê hương. Về sau, tàu "Aurora" đã đi vào lịch sử, góp phần vào cuộc cách mạng năm 1917. Còn số phận tàu "Diana" thì rất đáng buồn. Năm 1922, khi chính phủ nước cộng hòa Xô Viết trẻ tìm mọi cách để chống đói, tàu tuần dương Nga đã được bán cho Đức để làm sắt vụn.
Nguồn ruvr .ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

© Photo: vluki.ru

Tiếp tục chương trình phát thanh của chúng tôi hôm nay là chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua”.

Như chúng tôi đã nhắc tới, những thông tin đầu tiên về Việt Nam đến với nước Nga vào giữa thế kỷ XVII. Trên quả địa cầu được Sa hoàng Nga Alexei, thân phụ Piotr Đại đế sử dụng, lãnh thổ Vương quốc An Nam đã được mô tả khá chính xác.

Việt Nam biết đến nước Nga vào giữa thế kỷ thứ XVIII. Nhà bác học và bách khoa thư Lê Quý Đôn đề cập tới đế chế Nga và Mátxcơva trong các trước tác của ông.

Gần một thế kỷ sau, linh mục Công giáo Philip Bỉnh đã giới thiệu chi tiết hơn về Nga. Trong Sách sổ sang chép các việc, ông giới thiệu với người đọc về vị trí địa lý, thiên nhiên, chính trị, quân đội Nga. Từng sống ở Bồ Đào Nha, thầy cả Bỉnh trở thành nhân chứng quân đội Napoleon chiếm đóng Bồ Đào Nha vào năm 1807. Ông tỏ ra quan tâm tới tiến trình Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812 của nhân dân Nga chống nước Pháp Napoleon, chân thành đồng cảm và chia sẻ niềm vui thắng lợi của người Nga. Trong Sách sổ sang chép các việc, linh mục Philipp Bỉnh đã mô tả chính xác chiến lược thành công của quân Nga chống Napoleon. Ông còn nhận xét đối chiếu tình hình quân sự - chính trị căng thẳng ở châu Âu đầu thế kỷ XIX với sự tồn tại hòa bình khi đó giữa Nga và Trung Quốc.

Gần đây, sử gia Piotr Stvetov từ Mátxcơva phát hiện một số nhắc nhở thú vị về nước Nga ở Việt Nam. Ông cho biết:

“Năm 1905, nước Nga đã bước vào tác phẩm văn học Việt Nam. Ví dụ, trong bài thơ “Á tế Á ca". Tác giả nhắc đến Vladivostok, St. Petersburg, gọi Nga là một nước lớn và giàu.”

Nhà sử học Mátxcơva còn cho biết, bài ca Câu chuyện năm châu lục cũng nhắc tới nước Nga. Tác giả chưa được biết tên viết: “Không một quốc gia nào lớn như vậy”. Một phần quan trọng của bài thơ viết về hoàng đế Nga Piotr Đệ I, về những chiến thắng quân sự và cải cách của ông. Thực tế, theo ông Stvetov, bài ca được viết cho học sinh trường Đông Kinh Nghĩa Thục, với mục đích giáo dục lòng yêu nước trong học sinh người Việt. Bằng những ví dụ từ lịch sử nước Nga, tác giả hi vọng khêu gợi trong lòng đồng bào mình mong muốn cải cách vì lợi ích Tổ quốc.
Nguồn ruvr .ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Photo: http://enw-fond.ru/

Đài "Tiếng nói nước Nga" phát thanh từ Matxcơva tiếp nối chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” nói về mối liên hệ Nga-Việt.

Năm ngoái, kết quả kim ngạch thương mại giữa Nga và Việt Nam đã vượt quá 4 tỷ USD. Trong triển vọng gần là sự tăng trưởng hơn nữa. Danh sách hàng hóa Nga với nhiều hạng mục đã chiếm vị trí vững chắc trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam. Còn các vị khách của những cửa hiệu ở Nga đã quen với sản phẩm của ngành may mặc và công nghiệp giày, thủy hải sản, cà phê và chè, rau và trái cây từ Việt Nam .

Vậy, vào thời nào và ở đâu tại Nga lần đầu tiên xuất hiện hàng hoá từ Việt Nam? Thông thường người ta cho rằng đó là vào giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, khi Liên Xô và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký kết và thực hiện hiệp định thương mại đầu tiên.

Tuy nhiên sử gia Matxcơva Piotr Tsvetov đã điều chỉnh đáng kể mốc thời gian đánh dấu liên hệ thương mại đầu tiên của hai nước. Sử gia đương đại dựa trên cơ sở cuốn sách của nhà khoa học Nga Arkadi Stojkovich nhan đề "Lối sống, phong tục và di tích của các dân tộc trên thế giới". Cuốn sách này được xuất bản tại Matxcơva gần 170 năm về trước. Khi đó cả Liên bang Xô-viết cũng như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều chưa có. Nhưng hàng hóa Việt Nam đã có mặt ở xứ Nga! - tác giả cuốn sách ghi nhận. Và đó là thứ sản phẩm vẫn là kỳ bí đối với hầu hết người Nga đương thời – quả vải. Vải trồng ở Việt Nam đã được đưa đi đến Buryatia của Nga - khu vực nằm ở phía bắc Nga-Mông Cổ hiện nay, còn hồi giữa của thế kỷ trước từng là vùng ven biên giới Nga-Trung.

Nhà sử học Piotr Tsvetov tin chắc rằng các thông tin chứa trong cuốn sách 170 năm trước là hoàn toàn đáng tin cậy.

“Tác giả của cuốn sách rất nổi tiếng trong giới khoa học thời đó. Trong các công trình có kèm theo nhiều hình ảnh minh họa, ông đã mô tả tỉ mỉ về đất nước và con người Việt Nam”.

Ông đã cho những thông tin tuyệt đối chính xác về khí hậu và đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, về trang phục và nhà ở của người dân bản địa cũng như lịch sử đất nước. Thật kỳ lạ và đáng chú ý là khi mô tả công cuộc cải biến đất nước dưới triều vua nhà Nguyễn đầu tiên, tác giả đã so sánh vua Gia Long với người từng sống trước đó một thế kỷ là nhà cải cách Nga vĩ đại – Sa hoàng Piotr Đệ nhất.

Và đây còn thêm một số ví dụ từ cuốn sách của Arkadi Stojkovich. Dân số Việt Nam vào những năm 40 của thế kỷ 19 ước tính ở mức 13 triệu người, Hà Nội có 40.000 dân. Quân đội gồm 90.000 binh sĩ. Huế với những công trình đồn lũy và Hoàng thành được bảo vệ bởi hai trăm khẩu thần công thì tác giả cuốn sách định danh là "pháo đài số 1 của châu Á". Chúng tôi xin dành phần để các sử gia Việt Nam đánh giá về độ xác thực của những số liệu trong cuốn sách của tác giả Nga xuất bản 170 năm trước.

Còn bây giờ xin trở lại với những trái vải ngọt thơm của Việt Nam. Tác giả Arkadi Stojkovich không thông báo gì về hành trình mà thứ quả nhiệt đới hiếm lạ này từng trải qua 170 năm trước đây để đến tận vùng Buryatia của xứ Nga. Hy vọng rằng các nhà nghiên cứu hiện đại sẽ bổ sung để dựng lại ngày càng hoàn chỉnh bức tranh lịch sử quan hệ Nga-Việt.
Nguồn ruvr .ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Photo: EPA

Trong phần tiếp theo của chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua”, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu với bạn nghe đài một nghiên cứu mới của nhà sử học Matxcơva Petr Tsvetov.

Hai năm trước đây, khi bắt đầu chuyên mục này, chúng tôi đã ghi nhận rằng các ấn phẩm đầu tiên về Việt Nam trên báo chí Nga thuộc về các tác giả nước ngoài. Và chỉ đến năm 1846, nghiên cứu đầu tiên của công dân Nga về đất nước các bạn mới được công bố tại Matxcơva. Sử gia Matxcơva Petr Tsvetov phát hiện trong kho lưu trữ một nghiên cứu gần đây hơn của Evdokim Zyablovsky:

“Rõ ràng, Zyablovsky là tác giả Nga đầu tiên viết về Việt Nam. Là giáo sư Đại học St Petersburg, với người đương thời, ông nổi tiếng vì các nghiên cứu thống kê và địa lý.”

Một trong những tác phẩm của Zyablovsky là “Khóa học về địa lý phổ quát" được xuất bản tại St Petersburg năm 1819. Trong sách có nhắc đến Nam Kỳ "đông dân, giàu lúa gạo, vàng và bạc."

12 năm sau, trong cuốn sách mới của mình nhan đề là “Địa lý phổ quát" Zyablovsky mở rộng giới thiệu độc giả Nga với khu vực Bắc Bộ Việt Nam và đề cập đến Huế. Ông viết về “cung điện hoàng gia với trang trí tuyệt vời " và về Hà Nội. Tác giả liệt kê các tôn giáo của người dân địa phương như Phật giáo và Nho giáo, Hồi giáo và Công giáo. Tác giả cũng chú ý đáng kể đến đời sống kinh tế. Trong số những nghề chính của người dân, ông Zyablovsky nhắc tới nông nghiệp và lưu ý đến sự phát triển của ngành sản xuất tơ lụa và vải bông. Trong số các đối tác thương mại của Việt Nam tác giả nêu các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Tư và châu Âu. Đồng thời tác giả nhận xét rằng toàn bộ thương mại hàng hải của Việt Nam khi đó nằm trong tay của người Trung Quốc.

Sử gia Matxcơva Petr Tsvetov cho rằng cần phải ghi nhận công lao của ông Evdokim Zyablovsky trong việc giới thiệu ở Nga những thông tin đầu tiên về Việt Nam từ đầu thế kỷ 19. Tuy nhiên, sẽ không có gì bất ngờ, nếu trong quá trình nghiên cứu sẽ tiếp tục tìm thấy các tác giả Nga khác mô tả Việt Nam.
Nguồn ruvr. ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

© Flickr.com/Jean & Nathalie/cc-by

Đài phát thanh "Tiếng nói nước Nga" từ Matxcơva tiếp nối loạt bài của chuyên mục "Nhìn lại ngày hôm qua” dành nói về mối liên hệ Nga-Việt.

Hôm nay chúng ta sẽ không đi theo trình tự lịch sử thời kỳ cuối những năm 30 của thế kỷ trước mà chuyển tới vài thế kỷ trước. Nguyên do là một nghiên cứu mới của sử gia Nga Piotr Tsvetov.

Các vị khách tham quan Phòng Vũ khí trong điện Kremlin Matxcơva - một trong những bộ sưu tập phong phú nhất thế giới về hiện vật của những của thế kỷ đã qua - chắc hẳn đều chú ý đến quả địa cầu lớn đặt tại đó. Chính quả địa cầu này đã cho phép sử gia Matxcơva trở lại chiều sâu lịch sử, đẩy xa thêm ít nhất là một thế kỷ dấu mốc khi nước Nga lần đầu tiên được biết về Việt Nam.

Cho đến gần đây người ta vẫn cho rằng dấu mốc đó là năm 1783, với sự kiện người Hà Lan Samuel Baron công bố ở Matxcơva bản phác thảo đường nét xứ Bắc Bộ. Tuy nhiên, ông Piotr Tsvetov nêu giả thiết rằng khi đó thì công chúng Nga, và nhất là tầng lớp cầm quyền của đế chế, đã từng biết đến Việt Nam rồi. Và sử gia Việt Nam học đưa ra luận chứng thú vị:

“Quả địa cầu lưu trữ trong Phòng Vũ khí là thứ vật dụng thuộc về thân phụ Sa hoàng Piotr Đại đế, tức là Sa hoàng Aleksei, trị vì xứ Nga trong thế kỷ 17. Thế mà trên quả địa cầu mô tả thế giới thời gian đó đã ghi nhận vị trí của vương quốc An Nam và xác định khá chính xác phần lãnh thổ của đất nước xa xôi này”.

Đến thời Piotr Đại đế, vị Sa hoàng thừa kế ngai vàng vào đầu thế kỷ 18, đã xuất hiện những dự án đầu tiên về thiết lập liên lạc giữa Nga với các quốc gia Đông Nam Á. Chẳng hạn, dự trù phái đoàn thám hiểm vượt biển trực tiếp từ Viễn Đông, trên hành trình sẽ ghé hải cảng Việt Nam rồi tới Ấn Độ. Đáng tiếc là dự án này không được thực hiện.

Chuyên viên Việt Nam học Matxcơva, ông Piotr Tsvetov nói tiếp: “Xung lực mới để thiết lập quan hệ với Việt Nam là sự kiện vào cuối thế kỷ 18 đã thành lập công ty Nga-Mỹ. Công ty này dự định đảm bảo việc cung cấp cho khu dân cư Nga trên bờ biển phía tây của châu Mỹ - ở Alaska và California. Để làm như vậy đã mua gạo, đường, vải vóc và sợi đay dành cho kênh tàu biển, không phải ở Nga, mà tại các nước trong khu vực Đông Nam Á vốn rất sẵn các mặt hàng đó”.

Sau một thập niên nữa, khi chuẩn bị cuộc thám hiểm vòng quanh thế giới đầu tiên của Nga dưới sự chỉ huy của Krusenstern, Sa hoàng Aleksandr I lưu ý ngay đến nguyện vọng thiết lập quan hệ thương mại giữa vùng Viễn Đông của Nga với Bắc Bộ và Nam Kỳ. Tuy nhiên, mong muốn đó của hoàng đế Nga đã không được đáp ứng: tàu của Krusenstern lướt ngang qua bờ biển Việt Nam.

Vì vậy, con tàu Nga đầu tiên cập vào bến cảng Sài Gòn của Việt Nam đã là khu trục hạm cỡ nhỏ "Abrek", có vị sĩ quan trẻ Konstantin Stanyukovich phục vụ trong thủy thủ đoàn. Chúng tôi đã giới thiệu với các bạn những ghi chép thú vị đầy ấn tượng độc đáo của Konstantin Stanyukovich về cuộc sống tại Việt Nam năm 1863.
Nguồn ruvr. ru
 

vinhtq

Quản lý chung
Помощник
Một Việt Nam thanh bình, đẹp mộc mạc đến nao lòng đã được ghi lại qua ống kính của hai anh em nhà Tarasov trong chuyến hành trình dài 45 ngày.
Video mới đăng tải trên Vimeo của chàng thanh niên người Nga Georgy Tarsov có tên "The road story Vietnam" đang được cộng đồng yêu du lịch khắp nơi thích thú và ủng hộ. Video dài hơn 3 phút và được quay bằng máy ảnh Canon 5D Mark III có rất nhiều hình ảnh đẹp đậm chất con người và phong cảnh Việt Nam.

Georgy Tarsov chia sẻ, anh cùng anh trai của mình đã có chuyến du lịch dài 45 ngày tới Việt Nam từ tháng 9/2014. Đây là trải nghiệm rất tuyệt vời của cả hai anh em. Họ quyết định quay lại video để chia sẻ với mọi người câu chuyện du lịch của họ, những con đường họ từng đi qua và cả những người Việt Nam thân thiện mà họ đã gặp.

Hàng chục những lời khen ngợi của các phượt thủ khắp thế giới được viết dưới video mà Georgy Tarsov đăng tải. Hầu hết đều ngưỡng mộ chuyến đi thú vị của họ cũng như trầm trồ về khả năng quay phim. Còn những người Việt xa xứ như nickname Ha Cao thì viết: "Cảm ơn triệu lần. Tôi đã bật khóc khi xem đoạn video tuyệt vời này. Tôi bỗng nhận ra rằng tôi nhớ quê hương tôi biết bao". Và không ít các bạn trẻ Việt khác đã vào để lại những bình luận cảm ơn Georgy Tarsov đã ghi lại hình ảnh đẹp về Việt Nam.

Xem video về hành trình du ngoạn Việt Nam của hai anh em Georgy Tarsov


TẢI VỀ: Tại đây

Nguồn video: Vimeo (vimeo.com/117669654)
 

Attachments

  • The road story Vietnam-sd.MP4
    22.2 MB · Đọc: 469

vinhtq

Quản lý chung
Помощник

Nông dân Việt trên đất Nga - nhọc nhằn mưu sinh​


Chắc hẳn, khi máy bay cất cánh đưa họ lên bầu trời cao lồng lộng để đến với nước Nga xa xôi, mỗi chàng trai cô gái người Việt mà chúng tôi gặp tại một trang trại trồng rau ở Nga đều như được chắp cánh bay xa, mang theo ước mơ thay đổi cuộc đời, ước mơ giúp đỡ cha mẹ, anh em ở những vùng quê nghèo khó…Nhưng thật đáng tiếc, từ ước mơ tới hiện thực là cả một quãng đường nhọc nhằn, gian khó đòi hỏi không chỉ sự cần cù, chăm chỉ, mà còn cả ý chí cứng rắn để không quá thất vọng, nản chí trước thực tế không giống như những lời mời chào đi lao động nước ngoài. Họ không thể ra đi với bàn tay trắng cộng với một khoản chi phí phải trả trước, rồi lại trở về tay trắng và đáng buồn hơn cả là sự đánh mất niềm tin vào tương lai…

Họ đa phần là những chàng trai cô gái tuổi mới đôi mươi, ra đi từ những làng quê còn đang phải chật vật với miếng cơm manh áo ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Khánh Hoà… Ở quê, họ được mời chào sang Nga làm việc sẽ nhận được mức lương khoảng 10-15 triệu VNĐ/tháng và chi phí ban đầu mà họ phải trả để làm dịch vụ liên quan tới thủ tục xuất nhập cảnh và vé máy bay khoảng 35 triệu VNĐ.

Tin vào những lời quảng cáo và chỉ làm phép tính nhẩm đơn thuần, họ đã mường tượng ra một viễn cảnh sáng sủa: ra đi sẽ mang lại nhiều lợi ích, nhất là về mặt kinh tế, bởi ở quê làm nông cũng chỉ là cách làm kinh tế tự cung tự cấp, đủ ăn qua ngày. Với mức lương được hứa hẹn cao hơn gấp nhiều lần so với thu nhập ở làng quê, chẳng ai lại từ chối cơ hội ngàn năm như thế. Hăm hở tìm đến những điều mới lạ chính là thế mạnh của những người trẻ tuổi. Nhưng điều kiện sống ở nông thôn đã không cho họ cơ hội tìm hiểu kỹ nơi mình sẽ tới, cộng với kinh nghiệm sống còn quá ít ỏi, tầm nhìn còn hạn hẹp đã khiến không ít người trong số họ đã quyết định vay trước một khoản tiền để trả cho dịch vụ rồi khăn gói lên đường, tới một miền đất hoàn toàn xa lạ với cách tư duy theo lô gich đơn giản: Chỉ cần chăm chỉ lao động sẽ thực hiện được ước mơ đổi đời…
Nhưng cuộc sống thực ở nơi đất khách khác xa những gì mà họ mường tượng. Cho dù ở nông thôn nghèo khó đến đâu, nhưng chắc chắn chẳng ai trong số những người trồng rau đến từ Việt Nam có thể hình dung được rằng sang Nga lao động, họ phải sống trong những “chiếc hộp” chồng lên nhau làm bằng bìa cát tông được lắp ghép một cách sơ sài nhờ những thanh gỗ đủ kích cỡ mà người ta đã bỏ đi. Mỗi “chiếc hộp” như thế là chỗ ngủ qua đêm cho 2-3 người và đã vào trong “hộp” là chỉ có thể ngồi hoặc nằm, còn nếu đứng thì đầu sẽ chạm nóc. Những chiếc “hộp” được lắp ghép ở hai đầu của nhà kính chủ yếu được sử dụng để trồng hành vào mùa đông. Khoảng 30-40 người ở một đầu nhà kính. Mọi sinh hoạt thường ngày của vài chục con người chỉ bó hẹp trong không gian chật hẹp, thiếu không khí cùng với mùi ẩm mốc bốc lên từ khu đất trồng hành. Không có sóng tivi, họ thường giải trí bằng những cuốn băng phim gửi từ Việt Nam sang hoặc bằng sóng 3G của điện thoại di động. Một thanh niên quê ở Khánh Hoà buồn bã tâm sự: “Em không thể tưởng tượng được rằng sang đây mình lại phải ở trong “khu nhà tầng” èo ọp như thế này”.
Người Việt Nam vốn chịu thương chịu khó, khổ bao nhiêu họ cũng gắng chịu đựng, miễn là có việc làm và nhận được lương đều đặn hàng tháng để dành dụm tiền gửi về cho gia đình. Tuy nhiên, cùng với những biến động của nước Nga, trong những ngày giá lạnh giáp tết nguyên đán này, việc làm của người trồng hành thật bấp bênh: Hành lúc bán được lúc không do thị trường cạnh tranh và bị ép giá. Vì vậy, thu nhập của những người làm công chỉ khoảng 10.000 rúp/tháng, đủ để chi trả tiền ăn và sinh hoạt phí hàng tháng, còn việc gửi tiền về trợ giúp người nhà là mong muốn quá xa vời. Có người mới sang vài tháng đã chán nản, muốn quay về, nhưng lấy đâu tiền để mua vé máy bay!!! Không ít người trong số họ cảm thấy mình có lỗi với những người thân đang từng ngày trông ngóng những đồng tiền quý giá từ bên Tây gửi về. Chồng xa vợ, cha xa con, con xa bố mẹ…Cái giá của sự biệt ly hy vọng được đổi lại bằng những đồng tiền mồ hôi nước mắt gửi về từ trời Tây đã không được như mong đợi. Thất vọng, buồn chán, cảm giác lỗi lầm…dường như là tâm trạng chung đang bao trùm lên toàn bộ cộng đồng nhỏ của những người trồng rau nơi đây.
Một cô gái quê Tân Kỳ, Nghệ An đã có thâm niên 4 năm làm nông ở Nga, cũng đang ở trong tâm trạng buồn thương cho chồng và con gái nhỏ ở quê: “Từ khi sang đây, em chưa gửi được đồng nào cho bố con anh ấy, em muốn các anh chị nhà báo giúp em gửi lời xin lỗi chồng con…”. Chị muốn xin lỗi anh là bởi, những năm đầu làm thuê, chị cũng dành dụm được ít tiền, nhưng chẳng may em ruột của chị bị tai nạn gãy cột sống, chị đã phải dùng toàn bộ số tiền tích cóp được cứu mạng sống của em mình với lý lẽ đơn giản: “Em nó còn trẻ, nó cần có sức khoẻ để sống tiếp. Còn người, còn của”. Có lẽ, chị đã không đủ dũng khí đối mặt với chồng để xin anh tha lỗi vì chị chưa thể cùng anh gánh vác gia đình. Nếu người chồng ở quê thông cảm cho nỗi niềm của chị, chắc chắn chị sẽ cảm thấy yên lòng và sẽ có thêm động lực để tiếp tục con đường mưu sinh đầy gian khó, nhưng cũng từng có không ít cơ hội ở xứ sở bạch dương này. Chị đã có dự định, khi hè đến, điều kiện canh tác thuận lợi hơn, chị cùng bạn bè sẽ tự thuê đất để trồng hoa màu, hy vọng bằng cách này lợi nhuận thu được sẽ cao hơn. Mong sao cô gái mảnh mai nhưng đầy ý chí, xuất thân từ mảnh đất miền trung nắng gió này, sẽ thực hiện được ý nguyện của mình.
Do thị trường bấp bênh, nên khi có đơn đặt hàng là công nhân gắng sức làm ngày làm đêm để có thu nhập cao hơn. Chắn hẳn bạn cũng như tôi không thể tưởng tượng nổi một người lại có thể cắt được từ 1tấn đến 1,5 tấn hành trong vòng một ngày đêm. Đó là năng xuất mà H. – chàng thanh niên 28 tuổi người Nghệ An, làm nghề trồng hành được 2 năm, đã đạt được. “Em làm liên tục cả ngày, chỉ nghỉ 1 tiếng để ăn thôi”. Mỗi một ký hành anh được trả công 1,5rúp, vậy là với 1 tấn hành anh chỉ được trả 1500 rúp. Nhìn chàng trai dáng người gầy nhỏ, tay thoăn thoắt đưa dao, liên tục chất hành thành từng đống nhỏ, không ai có thể hình dung anh lấy đâu ra sức lực để liên tục hơn 20 giờ đồng hồ có thể lặp đi lặp lại cả ngàn lần một vài động tác giống nhau như thế. Tôi hỏi: “Người Nga mỗi khi bị cảm cúm đều cắt một củ hành tươi đặt trong phòng ngủ để diệt khuẩn, em ngồi trên cả ngàn củ hành như thế chắc chẳng bao giờ bị ốm?”. “Ngược lại, ở quá lâu trong bầu không khí sặc mùi hành và đất ẩm như thế này, hại nhiều cho sức khoẻ chị ạ”, - chàng trai ngậm ngùi trả lời.
Vất vả là thế nhưng đã có những người nông dân Việt bám trụ ở đây rất nhiều năm, họ tích cóp từng đồng gửi về nuôi con học hết đại học. Có những người 3-4 năm chưa một lần về thăm nhà. Toàn bộ sức lực họ dồn hết vào công việc để mong sao chu cấp cho gia đình có cuộc sống ấm no, con cái được học hành bằng chị bằng em. Công việc làm ăn khó khăn, điều kiện sống khổ cực, nhưng có điều khiến mọi người cảm thấy như được tiếp thêm sức lực chính là sự thương yêu và đoàn kết của cộng đồng những người trồng rau. Anh H. – người được coi như “anh cả” của cộng đồng nhỏ này, vì anh có thâm niên vài chục năm bươn chải ở xứ người, nói giỏi tiếng Nga và hơn tất cả là tấm lòng nhân ái đùm bọc mà anh dành cho những người đồng hương, đã tâm sự: “Chúng tôi ở đây tuy còn khó khăn, nhưng mọi người đều chia sẻ, giúp đỡ nhau”. Hy vọng, được sống trong tình tương thân tương ái, những người nông dân vốn cần cù, yêu lao động này sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn trước mắt, tìm kiếm cơ hội việc làm, biến ước mơ của mình thành hiện thực.
Năm 2014 vừa qua đi với nhiều khó khăn và tới năm 2015 này, tình hình kinh tế nước Nga vẫn đang rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, ảnh hưởng rất nhiều tới việc mưu sinh của những người nông dân Việt tại đây. Mọi người đều lo lắng, nhưng họ vẫn nuôi hy vọng kinh tế nội địa của Nga sẽ được vực dậy, và những cây hành, cây rau mà họ đổ mồ hôi nước mắt trồng nên sẽ tìm được thị trường tiêu thụ./.



Điều kiện sống đầy khó khăn













Nhà kính trồng hành



Thu hoạch hành





Những bạn trẻ sang Nga với mong muốn bằng sức lao động của mình thay đổi cuộc sống
Hải Hà (baonga.com)
 
Top